Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Người phụ nữ làm nên Nabokov



Bà tên là Vera, là một bằng chứng cho câu ngạn ngữ đại ý nói rằng đàng sau người đàn ông vĩ đại luôn luôn có dáng hình người phụ nữ còn vĩ đại hơn. Sinh ra ở S. Perterburg trong một gia đình Do thái thượng lưu, là một phụ nữ trí thức và được giáo dục hết mực, bà đã hiến dâng 52 năm đời mình cho chồng - nhà văn Vladimir Nabokov, bỏ qua cho ông những cuộc ngoại tình và nhận hết phần lỗi về mình. Bà làm tất cả để thiên tài văn học của ông trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới, cứu bản thảo tiểu thuyết “Lolita” khỏi bị cháy. Thi hài bà yên nghỉ dưới tấm bia mộ với dòng chữ: “Người vợ, Nàng thơ và Người đại diện”.



Từ năm 1948 đến 1959, vị giáo sư gốc Nga Vladimir Nabokov có ảnh hưởng đặc biệt tại trường Đại học tổng hợp Cornell. Nếu tính đến những gì ông đạt được vào thời điểm đó thì sự nổi tiếng không hề có liên quan đến sáng tác văn chương của ông, mà do một số sự việc khác thường. Trái với những giảng viên văn học khác, trước mặt sinh viên Nabokov thích hạ bệ các tác phẩm của những bậc vĩ nhân. Ông có thể hoàn toàn bình thản tuyên bố “Anh em nhà Karamazov” là một tác phẩm tồi, Servantes không hề biết gì về bối cảnh làm nền cho các sự kiện trong “Đông Ki sốt”. Những lời tuyên bố như thế luôn vượt ra khỏi khuôn khổ của quan niệm chung đã định hình, và có thể do đó mà nhà văn trở nên hấp dẫn trong con mắt giới sinh viên trẻ tuổi.

Tuy nhiên, những lời đàm tiếu tập trung nhiều hơn đến chuyện ông không bao giờ lên lớp một mình. Chiếc ô tô chở ông đến trường do một phụ nữ tóc hoa râm lái. Sau khi để xe vào bãi, bà đưa tay cho Nabokov đỡ và cả hai bước vào lớp. ở đó bà ngồi vào dãy đầu tiên hoặc vào bàn giảng viên phía tay trái của nhà văn. Quý bà bí ẩn này giữ im lặng tuyệt đối trong suốt giờ học, trong khi đó vị giáo sư gọi bà là “trợ giảng” và nhờ làm những việc đặc biệt như vẽ hình đầu người phụ nữ lên bảng bằng phấn hay tìm trang sách nào đó trong tác phẩm mà Nabokov bình luận. Thanh mảnh, với mái tóc hoa râm bạc màu và làn da trắng, người phụ nữ này nhanh chóng trở thành một nhân viên không thể thiếu trong trường.

Tất nhiên mọi người đều biết bà là vợ Nabokov, nhưng người ta lý giải sự có mặt của bà trong các giờ học rất khác nhau. Một vài sinh viên thậm chí nghĩ bà là mẹ chứ không phải vợ của Nabokov. Có những người quả quyết bà là vệ sỹ, trong túi xách của bà có khẩu súng lục. Còn một số thì đơn giản cho rằng bà là một dạng rào cản đối với các nữ sinh tìm cách gần gũi vị giáo sư. Thỉnh thoảng bà còn hỏi thi, một vài lần thậm chí dạy thay Nabokov, vì vậy điều dễ hiểu là những lời đồn đại đủ kiểu ngày càng nhiều.

Nhưng sự thực lại đơn giản hơn nhiều và đồng thời sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà sinh viên và đồng nghiệp của vị giáo sư người Nga hình dung. Vera Slonim, họ tên chính xác của người phụ nữ đặc biệt này là như vậy, sinh năm 1902 tại S. Perterburg trong một gia đình Do thái giàu có. Năm 1921 gia đình Slonim rời nước Nga, phía trước là một thiên truyện đầy phiêu lưu chờ đón họ. Sau những chuyến đi bất tận khắp châu Âu, cuối cùng nhà Slonim dừng chân ở Berlin. Chính tại đây Vera làm quen với Vladimir Nabokov, con trai một gia đình người Nga theo xu hướng tự do chủ nghĩa.

Trái với những kiều dân Nga khác, nhà Nabokov hoàn toàn phản đối chế độ nông nô và ủng hộ những cuộc cải cách từng bước có thể dẫn đến hiện đại hoá nước Nga về mặt xã hội và chính trị. Vladimir Nabokov đã cuốn hút được Vera ngay từ đầu. Ngoài ra, cô cũng nhận thấy ngay đây là một thiên thần văn học bẩm sinh cần được thể hiện hết tài năng đang ẩn dấu trong người. Vera không thuộc dạng phụ nữ mà công việc nhà có thể đẩy cô xuống hàng thứ yếu sau cái bóng của chồng. Thực tế hoàn toàn khác hẳn. Trong thời gian học ở Sorbone, Vera chứng tỏ mình là một nữ sinh xuất sắc, có nhiều triển vọng. Còn bây giờ, cô không hề do dự bỏ hết công việc của mình để toàn tâm toàn trí phục vụ công việc của chồng, để chồng sáng tác nên những dòng văn mà theo lời bà là “nóng hổi và ẩm ướt”. Những năm sau này Vera không giữ lại một bản thảo công trình khoa học nào của mình từ thời sinh viên, nhưng bà đã rất cẩn thận, chi li, chính xác trong việc đánh máy, xếp đặt và gìn giữ những trang viết tuôn ra từ ngòi bút của chồng. Bà nhận thức được những gì ông viết nên chưa hẳn đã hoàn thiện, nhưng với sự giúp đỡ của bà ông sẽ chinh phục những đỉnh cao văn học.

 
Người vợ thuỷ chung

Lòng chung thuỷ của Vera hoàn toàn có ý thức, thậm chí vào cuối những năm 30, biết là Nabokov ngoại tình nhưng bà vẫn một lòng giữ chung thuỷ. Hơn thế, bà còn cho rằng nếu chuyện buồn đó xảy ra thì chỉ vì lỗi của bà và quyết định giải quyết nó với thái độ tế nhị thường thấy. Bà không chỉ thổi bầu không khí mới mẻ vào cuộc hôn nhân giữa hai người, một cuộc hôn nhân tưởng chừng như không thể tránh khỏi tan vỡ, mà còn thuyết phục Nabokov tin rằng hành động đó là tốt nhất trong số những gì mà ông có thể làm được. Nabokov đã thừa nhận, tất cả những gì ông có được là nhờ bà và thiếu bà ông chỉ là con số không.

Đôi vợ chồng rời Berlin năm 1938, khi tất cả đều tin rằng chiến tranh lại sắp nổ ra. Lục địa già không phải là địa điểm an toàn lắm và sắp tới càng tồi tệ hơn. Vera thuyết phục được Nabokov chuyển đến New York, mở đường cho ông tới vinh quang sẽ đến sau hai thập kỷ. Tại Mỹ vai trò người vợ của bà càng quan trọng hơn, bởi lẽ chưa bào giờ bà coi Mỹ là chốn nghỉ ngơi, mà đó chỉ là bệ phóng cho các tác phẩm chồng bà cất cánh. Thậm chí ngay cả khi người phụ nữ không biết mệt mỏi này bị sưng phổi và nằm nhà, bà tận dụng hoàn cảnh đó để đánh máy cho chồng, chưa lần nào để cho ông sao nhãng công việc viết văn, mặc dù các khoản nợ gia đình nhiều lúc lên đến ngập cổ.

Có thể là ai đó còn nghi ngờ những gì Vera làm được cho cuộc hôn nhân giữa hai người, nhưng người đó không phải là Nabokov. Ông tôn thờ bà, gọi bà bằng những từ dịu dàng, yêu thương như “câu chuyện cổ tích thần tiên của anh”. Còn những gì bà làm cho nền văn học thế giới thì không ai có thể chối cãi. Chính Vera đã cứu “Lolita” khỏi ngọn lửa, khi Nabokov vì mệt mỏi phải sửa đi sửa lại bản thảo đã ném nó vào lò sưởi. Chính bà đã lái chiếc xe mà trên ghế sau của nó tác giả đã ấp ủ, sinh ra tác phẩm bất hủ. Bà đã phải trả giá về mặt tinh thần cho hành động này: chính bà cấm con trai đọc sách của Mark Twain với lý do trong đó cón những từ ngữ thô tục, nhưng bà lại đọc, soát và đánh máy “Lolita” kể về tình cảm không lành mạnh của một ông thầy già đối với cô bé Lolita. Dù vậy Vera cho rằng một tuyệt tác như thế không đáng bị thiêu cháy. Ngoài ra, như bà thú nhận, bà lo ngại là tác phẩm bỏ giở sẽ ám ảnh Nabokov suốt đời, mà điều đó thì bà lại không thể chịu đựng nổi.

 
Người đại diện
Cái cảnh Vera cứu “Lolita”, khi một sinh viên tình cờ chứng kiến thấy vợ Nabokov từ nhà chạy ra với bản thảo đã bén lửa trong tay và cố dập tắt nó không phải là điều duy nhất mà bà làm được cho chồng. Trong số những công việc bà làm một cách hoàn hảo có việc lái xe gia đình; thương thảo hợp đồng với các nhà xuất bản một cách riết róng khiến những viên đại diện già đời nhất cũng phải ngả mũ cúi chào; thậm chí bà thu thập tư liệu cho một số tác phẩm của chồng, chẳng hạn ghi lại những hồi ức của mình về những năm đầu tiên trong đời con trai họ để Nabokov viết nên tiểu thuyết “Hãy nói ra, trí nhớ”. Nếu những gì kể trên đây vẫn còn ít thì có thể bổ sung thêm: Vera sửa chữa những truyện ngắn chồng bà viết bằng tiếng Đức, biên tập thơ ý, và khi đã 80 tuổi bà bắt tay vào dịch “Ngọn lửa hắt hiu” sang tiếng Nga.

Lòng sắt son của bà không chỉ thể hiện trong công việc văn chương. Bà hiểu rằng nghệ sĩ cần phải được làm việc trong bầu không khí yên tĩnh tuyệt đối và để ý đến từng chi tiết để cuộc sống của Nabokov thuận tiện hơn, thậm chí bà còn tìm ra cách để các loài bướm mà chồng bà say mê sưu tập chết nhẹ nhàng hơn. Trong mỗi trường hợp Vera gánh lấy những thứ việc mà chồng bà căm ghét nhưng hết sức cần thiết cho công việc sáng tác và cho thành công sau này.

Khác với những bậc nghệ nhân khác cho rằng tài năng của họ xứng được phục vụ đủ kiểu, Vladimir quý trọng tất cả những gì Vera làm cho ông, không ngừng gọi bà bằng những cái tên dịu dàng mà nhiều người thấy ngây ngô, nhưng chính đó lại là bằng chứng cho tình yêu sâu lắng của ông đối với vợ mình. Suốt đời ông than phiền về sự cô đơn, nhưng lại thú nhận ông chỉ thích trò chuyện, bàn luận, dạo chơi và cười đùa với một mình Vera. Sự hiện diện của bà cần thiết với ông đến nỗi ông không thấy hứng thú với bất cứ điều gì nếu bà không ở bên cạnh. Một lần, thậm chí ông còn thả một loài bướm rất quý hiếm chỉ vì Vera không có bên cạnh để chia sẻ niềm vui.

Vladimir Nabokov mất năm 1977, còn Vera sống lâu hơn ông gần 15 năm và rời cõi đời năm 1991. Suốt những năm tháng này bà không nghỉ ngơi, mà ngược lại làm một khối lượng công việc khổng lồ. Mỗi bản dịch, mỗi lần xuất bản, tái bản tác phẩm của Nabokov đều được bà quả phụ kiểm tra lại với thái độ đầy quan tâm, trìu mến. Bà tiếp tục dịch sách của chồng sang các thứ tiếng khác, đặc biệt là sang tiếng Nga. Trong công việc này sự tưởng niệm nhiều hơn là ý nghĩa thực tế, tưởng niệm người đàn ông của cả cuộc đời bà.

Cuộc đời vợ chồng Nabokov có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau và không phải tất cả các quan điểm đều tích cực. Dĩ nhiên là không hiếm những người cho rằng Vera đối với Vladimir chỉ là người phục vụ chứ không phải vợ, và vì thế tài năng của ông giống như một dạng ăn bám vào lòng sắt son, thuỷ chung của bà. Cũng sẽ có không ít những người thực sự xúc động khi nghĩ đến người phụ nữ có vai trò lớn như vậy trong cuộc đời riêng và sự nghiệp sáng tạo của nhà văn và đạt được đỉnh cao cùng chồng.

Có thể không một cách nhìn nào trên đây là chân lý duy nhất. Nhưng tình yêu đích thực vượt lên mọi lời đàm tiếu, và không ai có thể phủ nhận được Vladimir và Vera, ngoài những trường hợp hiếm hoi, đã hạnh phúc bên nhau suốt 52 năm chung sống. Mà điều đó lại không phải ai cũng đạt được.

Nguyên Lâm
Theo Internet