VietNamNet: Trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Ý Alberto Ongaro vào năm 1966, Vladimir Nabokov đã nói về niềm tin vững chắc của ông rằng không thể coi nhẹ tình yêu, một trong những tình cảm tự nhiên và đẹp nhất của con người. Ông khẳng định, tình yêu hiện đại không phải đang "diễn ra trên chỗ trống cảm xúc và đem luân lý xác thịt đặt vào chỗ luân lý tình cảm" như nhiều người thường nghĩ.
Ongaro: - Thưa ngài Nabokov, có phải sự giải phóng phụ nữ đã giết chết tình yêu truyền thống không? Nói vắn tắt, khẳng định của các nhà xã hội học dẫn tới kết luận sau: hai cuộc chiến thế giới đã phá hủy cấu trúc mang tính đàn ông của xã hội chúng ta và làm xuất hiện một kiểu phụ nữ mới: hiện đại, đầy lòng ham sống và kiên quyết không quay lại phòng phụ khoa, nơi họ bị trói buộc ngàn đời, một kiểu phụ nữ sẵn sàng tham gia cuộc sống xã hội, hoạt động nghề nghiệp, sẵn sàng bảo vệ sự độc lập của mình.
Ngài đồng ý không, thưa ngài Nabokov? Một điều dễ hiểu là quan niệm coi phụ nữ khác đàn ông, cho họ có những nhu cầu khác, ít ham muốn hơn, khả năng hạn chế hơn, nhìn cuộc sống khác hơn, quan niệm ấy không còn đúng nữa. Thưa ngài Nabokov, hiện nay điều đó bị coi là dối trá.
Phụ nữ bao giờ cũng hoàn toàn ngang bằng với đàn ông, thậm chí vượt hơn đàn ông, chỉ cần đàn ông cho họ khả năng đó. Tình hình hiện nay là phụ nữ đang phục thù: chẳng thèm hỏi ai, tự tin vào lẽ phải con người của mình, họ đang giật lấy ở đàn ông tất cả những gì mà họ đã bị chối từ. Và họ bắt đầu làm việc này từ rất sớm, ngay khi còn là bé gái, vì vậy bức tranh ảo tưởng do đàn ông vẽ ra theo thói quen hay do sợ hãi, đang bay tung thành trăm mảnh. Cùng bay biến với các mảnh vỡ của bức tranh này (có đúng vậy không, thưa ngài Nabokov?) là những tình cảm xưa cũ và có gửi các binh đoàn cứu trợ gồm các nhà lãng mạn để đi tìm lại chúng thì cũng vô ích mà thôi. Tình yêu xưa đã chết, những tình cảm mới đã ra đời: lạnh lùng hơn, duy lý hơn, thực tế hơn. Đấy là điều các nhà xã hội học nói.
Bây giờ, thưa ngài Nabokov, chúng tôi muốn biết ý kiến của ngài. Chúng tôi tới đây, nơi ngài đang vui thích bắt bướm, để biết rõ hơn ý kiến của ngài. Đối với chúng tôi, đó là ý kiến của một chuyên gia. Ngài là tác giả của Lolita, đấy không đơn giản là cuốn tiểu thuyết cuối cùng về tình yêu, mà còn lớn hơn, đấy là một tuyên ngôn, một sự tiếp tục, một bản phác đầu tiên của cách thức tồn tại mới cho phụ nữ. Các cô gái hôm nay, thưa ngìa Nabokow, ngài có thấy họ là con riêng của mình, là chị em của Lolita không?
Nabokov: - Đó có phải là chị em của Lolita không, có lẽ tôi không biết. Mà tôi cũng không thể nói đó là các con gái của tôi. Dây mơ rễ má ở đây tôi thấy chỉ là ngẫu nhiên thôi. Khi viết “Lolita” tôi không hề nghĩ đến một nguyên mẫu có thực nào cả. Tôi không biết nước Mỹ, không biết các cô gái vị thành niên Mỹ và tâm lý của họ, không biết lối sống của họ. Lolita là do tôi nghĩ ra. Nếu về sau hình ảnh hiện ra trong đầu ấy có hình hài và trở thành một cô gái bằng da bằng thịt, thành hai cô, ba cô, thành hàng trăm, hàng triệu cô, thì tôi biết làm sao đây? Chẳng phải vì thế mà tôi có thể được nhận quyền làm cha. Vâng, tôi biết, người ta bảo rằng các cô gái thời nay chỉ chú mục vào truyện tranh, chỉ say sưa với truyền hình, điện ảnh, y như Lolita vậy, không biết gì đến tình cảm, đến các mối quan tâm khác, ngoài thứ mà họ gọi là văn hóa đại chúng. Nhưng tôi xin nhắc lại, những trùng hợp đó chỉ là ngẫu nhiên. Tôi không có ý định mô tả một hiện tượng thường ngày, tôi không tiên đoán nó.
Ongaro: - Nếu vậy ngài sẽ giải thích sao hiện tượng “hội chứng lolita”? Giải thích sao việc tất cả các cô gái này cư xử, đi lại, ăn mặc hệt như Lolita?
Nabokov: - Tôi không biết. Đó có lẽ là kết quả của những mánh khóe mà các tạp chí phổ biến đã ép lên nàng Lo tội nghiệp của tôi. Đã diễn ra một điều gì đó hoàn toàn không can hệ gì đến cuốn sách và nhân vật. “Lolita” - đó là truyện một cô gái buồn bã trong một thế giới còn buồn bã hơn. “Chứng lolita” lại là chuyện hoàn toàn khác. Không, tôi không nghĩ mình đã tác động đến hành vi của ai đó qua “Lolita”. Thường là độc giả tìm thấy trong cuốn sách những ám gợi mà tác giả không ngờ tới. Đó là thứ hàng lậu được mang vào mà tác giả không được biết. Ảnh hưởng duy nhất có thể nói chắc được là như sau: ở Mỹ cái tên “Lolita” biến mất khỏi giấy khai sinh. Trước đây đó là cái tên hết sức phổ biến, bây giờ không bậc cha mẹ nào muốn đặt cho con gái mình cái tên đó nữa. Nó được chuyển sang cho chó.
Ongaro: - Nhưng thưa ngài Nabokov, cho dù ngài có phủ nhận đi nữa, Lolita vẫn gắn chặt với tập tục hiện nay. Nàng là biểu tượng của thời kỳ đầu xanh tuổi trẻ trong cuộc sống trưởng thành, một thời kỳ đầy tính khiêu khích, bất an, thường hay bị kết tội. Các cô gái hiện nay vào đời sớm, rất nhanh hiểu biết về bản thân, khám phá tình dục và thực hành nó như một công cụ sớm hơn các cô gái hai thế hệ trước cho phép mình làm điều đó. Vậy là trong xã hội chúng ta đã xuất hiện một kiểu người mới hoàn toàn - “teenage” - mà Lolita ở đây là cánh én đầu tiên. Từ “teenage” không chỉ có nghĩa đơn giản là “đầu xanh tuổi trẻ, mới lớn, vị thành niên” theo nghĩa truyền thống của từ, mà còn lớn hơn: “teenage” nghĩa là tình dục vị thành niên, là những biểu hiện tình dục và những quy tắc hành vi của trẻ vị thành niên trong lĩnh vực này.
Nabokov: - Vâng, có lẽ thế. Nhưng đừng quên rằng các trò huê tình của lớp người vị thành niên thì bao giờ cũng có. Đây chẳng phải là điều gì mới mẻ, chẳng phải là phát minh của thời nay và chẳng phải là đặc điểm tiêu biểu của cái gọi là “xã hội chúng ta”. Trong các nền văn hóa kiểu khác, trò này của vị thành niên còn được người lớn trực tiếp khuyến khích. Vì vậy tôi không thấy chuyện này có gì mới mẻ cả. Và tôi không tin là có sự phát triển gia tốc về tâm lý và tinh thần của lớp người vị thành niên. Nói chung những sự khái quát tôi thấy là nguy hiểm. Vị thành niên nào? Cần phải nói rõ. Cố nhiên nếu chúng ta đi dạo ở New York hay London và thấy tất cả các cô gái này váy ngắn, tóc xù, tô môi, kẻ mắt thì ta sẽ sửng sốt trước hành vi của họ và phải đặt ra hoàng loạt câu hỏi. Nhưng nếu chúng ta đến Madrid hay Boston thì bức tranh sẽ trái ngược hẳn lại. Bất luận thế nào, ngay nếu điều đó không phải thế, ngay nếu làn sóng teenage (theo nghĩa như anh nói) bùng lên ở những chỗ không ngờ nhất và các cô gái tóc nâu môi trầm tràn ngập không chỉ Boston hay Madrid, mà cả Terrachina hay Tucson, bang Arizona, tôi vẫn không tin nó sẽ làm xuất hiện các tập quán tình dục khác hay một cách nhìn mới về tình yêu.
Ongaro: - Như người ta đang thuyết phục chúng ta <...> tình yêu ở thời chúng ta bùng lên nhanh mà tắt đi cũng nhanh, quan hệ yêu đương hoàn toàn mất đi tính nghiêm túc, mọi người yêu nhau rồi chia tay nhau với nụ cười, thay bạn tình nhanh như thay áo. Chung thủy ư? Có vẻ như cái từ này đang bị hắt hủi: ít người quan tâm tới nó, không ai tuân thủ nó, chế độ một vợ một chồng là khái niệm đã bị vượt qua, sự hân hoan, đam mê, niềm vui và nỗi khổ của tình yêu là hồi ức của những thời đã qua. Ghen tuông ư? Ghen tuông là gì vậy? Ai còn nhớ đến nó? Trong các quan hệ yêu đương giờ đây người ta thuê mượn nhau chứ không phải dâng tặng, cặp tình nhân là gồm hai cá thể tự do quyết định sống với nhau mà không hạn chế tự do của mình, cảm giấc chiếm hữu đã chấm dứt. Phản bội ư? Đó là cái xấu không tránh khỏi, cần phải biết cách xử sự thực tế với nó. Theo nghĩa nào đó, nó không còn gợi nên nỗi sợ như một khi nào đó nữa: tất cả chúng ta đều có người của mình, vậy nên hôm nay hình ảnh một tình nhân lãng mạn đau khổ rơi lệ vì người tình phản bội thực là nực cười. Tình dục bị tách khỏi tình cảm. Vậy là đã biến mất không chỉ những tình cảm bình thường, lãng mạn, như ở Werther hay Tristan với Yseult, mà cả những tình cảm trái ngược, phức tạp, ẩn giấu mà cách đây chưa lâu văn học và điện ảnh đã tập trung khai thác. May lắm thì những cặp tình nhân thời nay - đó là những con người vô danh và tuyệt đối hai chiều như thấy trong phim của Godard.
Nabokov: - Tôi không biết phim của Godard. Tôi có xem các phim của Fellini - “8/12” và “Con đường”. Tôi thấy chúng rất lãng mạn, rất cảm động. Nhưng tôi đồng ý với anh ở điểm văn học và điện ảnh tiếp cận đề tài tình dục gần hơn trước đây. Thậm chí có thể nói chúng không làm gì khác hơn cả. Và đó, theo tôi, là thay đổi rõ rệt duy nhất diễn ra trong lĩnh vực này. Nhiều thông thoáng hơn, ít xấu hổ, kiểu cách hơn khi thảo luận đời sống tình dục. Mặc dù trong quá khứ đã có một kho tàng văn học sắc dục hết sức phong phú, văn học hiện nay ít kiểu cách hơn trước đây, ngoại trừ văn học Nga là nền văn học chưa từng bao giờ thoát khỏi sự đoan trang bề mặt. Nhưng đối với các nền văn học phương Tây còn lại thì không thể phủ nhận điều này. Thời gian dường như đã thay đổi. Balzac chẳng hạn, ông không để tâm đến các quan hệ tình dục của nhân vật, mặc dù hiển nhiên là chúng có diễn ra. Bây giờ thì chúng được kể tỉ mỉ. Các nhà văn mô tả chi tiết các phương diện sinh lý của tình yêu. Nhưng đó là sự kiện của lịch sử văn học và điện ảnh hơn là của lịch sử phong tục. Nói chung, tôi cảm thấy các tập quán tình dục ở các nước phát triển vẫn bất biến, chỉ có cách thể hiện chúng là thay đổi thôi.
Ongaro: - Còn tình cảm? Tình cảm cũng bất biến ư? Ngài không tin là trong thời đại chúng ta chúng đã bị biến dạng nhanh chóng ư?
Nabokov: - Theo như tôi biết thì không. Anh thấy không, tôi cho là chúng ta thiếu điểm tính để có thể nói về sự biến dạng. Khi chúng ta nói về sự thay đổi, sự biến dạng, bao giờ cũng cần phải tìm một điểm xuất phát, một hình mẫu lý tưởng mà từ đó quá trình thay đổi bắt đầu diễn ra. Còn đối với chúng ta, khi nói về tình yêu, chúng ta thiếu một mẫu như thế. Chúng ta biết các phong tục của người Hy-La cổ cho phép họ được tự do sống đồng tính. Có phải đấy là hình mẫu của chúng ta? Tôi không dám chắc. Hay các phong tục của người Ba Tư, Arập? Càng tệ hơn!
Chúng ta có sự hình dung điền viên, lý tưởng về tình yêu thời trung cổ, nhưng nếu chúng ta xem một số tranh khắc thời đó thì sẽ thấy các chàng kị sĩ cao quý trần truồng tắm cùng các bà vợ của mình. Đó là hình mẫu lý tưởng để đem so với phong tục của chúng ta chăng? Không. Không, vì các quan hệ yêu đương thời nào thì cũng vậy thôi. Tình yêu hôm nay không khác tình yêu thời Catulla. Anh thấy đấy, tôi cho là cần phải có những khảo cứu lịch sử sâu sắc hơn những gì các nhà xã hội học đang làm, để khẳng định là có sự biến dạng diễn ra thực.
Ongaro: - Dù gì đi nữa, ý kiến chung vẫn cho rằng quan niệm của thế kỷ XIX về tình dục và tình yêu là khác với hiện nay. Nền tảng của nó, người ta bảo chúng ta, là thanh giáo, còn những trường hợp yêu say mê, cuốn theo những quan hệ tình dục bị coi là hiện tượng bất bình thường. Có phải thế kỷ XIX và những tàn tích cuối cùng của nó trong thế kỷ này là cái bị xa lánh?
Nabokov: - Theo tôi, nói thế kỷ XIX là thế kỷ thanh giáo thì nhàm rồi. Lấy một thí dụ: trong thế kỷ XIX kẻ ngoại tình là một hiện tượng xã hội được thừa nhận. Các “feuilleton” Paris đầy rẫy những chàng ngoại tình trang nhã, hào hoa. Vào thời Puskin diễn ra những chuyện không thể mô tả được. Không, tôi không tin thế kỷ XIX là đặc biệt mang tính thanh giáo. Cũng như tôi không tin thế kỷ XVIII là thế kỷ phóng đãng nhiều hơn thời đại chúng ta đang sống. Tôi cho rằng mẫu người thanh giáo và mẫu người tự do cùng tồn tại đồng thời trong mọi thời đại.
Ongaro: - Nhưng ở thời chúng ta, thưa ngài Nabokov, đề tài này thu hút sự chú ý mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các tạp chí, điện ảnh, bảng quảng cáo không thể tránh được tình dục. Và không thể không tính đến những hình ảnh đó: chúng đập vào cảm quan ta và làm nó thay đổi. Nghe các chuyên gia - đó là mối nguy trầm trọng đối với con người nhiều hơn là thoạt tưởng.
Nabokov: - Có thể, việc bỏ bom bằng hình ảnh là cái mới của thời chúng ta. Nhưng đó chỉ là trên bình diện số lượng. Sự tái hiện bằng thị giác chuyện sắc dục thì thời nào cũng có. Cố nhiên, trước đây không thiếu các bức tranh mô tả tình yêu. Thí dụ thì vô khối: toàn bộ các nàng Vệ nữ trong hội họa, Leda và con thiên nga (I), Susannah và các lão già (II) , đấy là chưa kể các bức bích họa ở Pompei mà một số trong đó ở vào cái thời gọi là trơ trẽn, phóng túng của chúng ta nay thì cũng không thể xem được, bởi vì nó quá gay cấn. Bây giờ hội họa không vẽ tình yêu nữa. Việc đó đã chuyển sang cho điện ảnh, truyền hình, quảng cáo làm. Tôi không biết số lượng các hình ảnh đó có thể tác động đến cảm quan của chúng ta và làm nó thay đổi hay không. Tôi không tin điều đó. Bất luận ra sao, bản thân hiện tượng này không phải là sự biến dạng, mà là sự chuyển tiếp. Chuyển tiếp đến một phương tiện biểu hiện khác.
Ongaro: - Dường như sự chất chồng các hình ảnh tình dục lên đời sống thường ngày còn gây ra hiện tượng này nữa: địa vị phụ nữ chiếm giữ trong xã hội chúng ta không còn như trước đây. Sự hiện diện nhạy cảm, đập ngay vào mắt của họ vẻ như là khúc dạo đầu cho sự thống trị thế giới của phụ nữ trong tương lai. Có thể đàn ông cho rằng làn sóng tình dục đang dâng cao đó là để phục vụ họ. Nhưng các nhà xã hội học cũng như các nhà tiên tri hiện đại thì phủ nhận việc đàn ông là động lực của xu hướng này. Đó là phụ nữ điều khiển, quy định và tạo dựng hiện thực, họ nói. Vậy là chúng ta đang tiến đến một chế độ mẫu quyền.
Nabokov: - Không, không. Những suy luận về chế độ mẫu quyền khiến tôi nực cười. Xin các nhà xã hội học tha lỗi cho tôi. Họ không thuyết phục được tôi rằng không có sự khác biệt sinh học giữa đàn ông và phụ nữ. Có đấy. Tôi không tin rằng xã hội có cấu trúc đàn ông và điều đó cản trở phụ nữ phát triển xu hướng của mình. Bây giờ có cái thói là xem thường sinh học và đo mọi thứ bằng thước đo xã hội - kinh tế. Nhưng thế chưa đủ. Thực tế hoàn toàn khác. Điều này nghe ra nhàm, nhưng thực tế là phụ nữ về mặt sinh học yếu hơn đàn ông.
Ongaro: - Đáng chú ý là chính ngài nói ra điều này, mặc dù ngài thường xem xét quan hệ đàn ông và phụ nữ hoàn toàn theo cách khác. Lolita trong quan hệ với Humbert Humbert tỏ ra mạnh hơn ông ta.
Nabokov: - Cô ta mạnh hơn vì Humbert Humbert yêu cô ta. Chỉ vậy thôi.
Ongaro: - Ngài thấy một mối tình như của Humbert Humbert đối với Lolita còn có thể có được không? Tức là tôi muốn nói đến một tình yêu hoàn toàn bằng cảm xúc, không thể phân tích rạch ròi các tình cảm của mình. Mối tình đó theo ngài còn có khả năng không?
Nabokov: - Humbert Humbert là một người hư hỏng, không đáng theo gương ông ta. Nhưng nếu khi đặt câu hỏi anh muốn biết tôi có tin là mọi người vẫn yêu nhau như thời nào thì tôi trả lời anh là “có”. Chắc anh biết tôi từng có thời gian dài dạy ở một trường đại học. Tôi biết rõ lớp trẻ, tôi thấy những cặp yêu nhau, thấy những cặp chia tay đau khổ, và những cặp khác chia tay nhẹ nhõm. Thời nào thì cũng thế thôi. Những người trẻ mà tôi biết yêu nhau cũng chẳng khác gì tôi, chẳng khác gì tuổi trẻ hôm nay và ngày mai cả.
Ongaro: - Ngài có liều quá không khi nói như vậy, thưa ngài Nabokov? Từ chỗ một người không thay đổi trong những hoàn cảnh này, không chắc nó đã không thay đổi trong những hoàn cảnh khác. Nếu không tính đến điều đó thì chỉ cấn một bước nữa là tới chỗ khẳng định con người là bất biến, là bao giờ cũng giống nhau, độc lập với các điều kiện lịch sử trong đó nó sinh trưởng.
Nabokov. Tôi không tin vào sự tồn tại của “con người”, mà vào mọi người; tất cả mọi người đều khác nhau và giống nhau chỉ ở những yếu tố gốc không thay đối với thời gian. Tình yêu - đó là yếu tố gốc. Tất nhiên, có thể có sự phát triển về xã hội, về đạo đức, nhưng nó không làm thay đổi cách yêu đương và những tình cảm mà niềm vui nỗi khổ tình yêu gây ra bao giờ cũng giống nhau.
Ongaro: - Dù gì đi nữa, có cảm tưởng là tình yêu đang nhanh trở thành trò chơi. Cái quan trọng là có được tình yêu cho chính mình, chứ không phải đem nó cho người khác. Tình yêu hiện đại dường như đang diễn ra trên chỗ trống cảm xúc và đem luân lý xác thịt đặt vào chỗ luân lý tình cảm.
Nabokov: - Tôi thấy đó không phải là xu hướng chung, mà là một hiện tượng xảy ra trong một số nhóm. Có thể là trong những giới không bao giờ có thái độ nghiêm túc đối với tình yêu. Lẽ tất nhiên, hạng lưu đãng ở New York và London, giới họa sĩ sống ở Greenwich-Village và Sokho, rất ít cuốn theo tình cảm này. Nhưng hành vi của họ không khác gì hành vi của giới lưu đãng các thời khác. Trong những nhóm khác thì vẫn tiếp tục diễn ra điều luôn diễn ra: mọi người vẫn nếm trải vị ngọt ngào cay đắng của tình yêu, vẫn chết đi - và chết đi vì tình yêu. Không, tôi không tin là có thể nói về một xu hướng chung coi nhẹ tình yêu.
Ongaro: - Như vậy, không có chuyện gì xảy ra với tình yêu cả, và chúng ta có thể yên tâm ngủ ngon. Đối với Nabokov, con người văn chương và khoa học (ông là một trong những nhà côn trùng học đáng kính nhất thế giới), được giáo dục bằng chủ nghĩa tương đối, vấn đề không tồn tại, nếu nó không nằm trong lĩnh vực diễn đạt. Người ta nói về tình yêu theo nhiều cách khác nhau, nhưng thời nào nó cũng sống giống nhau. Các kết quả nghiên cứu xã hội học chỉ ở trong một thời điểm lịch sử nhất định, còn thực tế thì phức tạp hơn, bí ẩn hơn, khó lường hơn những gì các nhà xã hội học muốn tin.
Nabokov: - Thử đưa ra một phán quyết trọn vẹn về hiện tượng qua một số nhận xét thoáng qua có thể là một việc quá tự tin và giả tạo. Giá trị duy nhất có thể thấy là ở chỗ nó chỉ đơn giản là mốt. Mà mốt - đó là “ảnh hưởng trôi qua, bệnh dịch tư tưởng, sự tấn công của cái tầm thường làm đám đông kinh ngạc”. Cũng không thể nói cả về “xã hội chúng ta”, bởi vì các giới hạn của nó là chưa biết và bởi vì cần phải đồng thời tính tới các phương diện trái ngược và loại trừ nhau. Xã hội - đó là sự trừu tượng, chỉ các cá nhân là tồn tại.
Ongaro: - Khi nói với Nabokov rằng các suy luận của ông tuyệt đối ở ngoài mốt, chúng tôi tin đó là lời khen tặng ông. Sartre cho rằng các suy luận của Nabokov là mẫu mực của cái ông gọi là tư duy của người “bật gốc” (déraciner) - người đã bỏ lại xã hội riêng của mình nhưng cũng không thể nhập vào một xã hội nào khác.
Có thể là thế. Có thể. Nabokov không nhận thấy những thay đổi tập thể và phủ nhận ý nghĩa của xã hội bởi vì ông chìm sâu vào một chủ nghĩa cá nhân kiêu hãnh và đơn độc. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh biệt lập của nhà văn vẫn có điều lợi. Trong một thời đại bị các nhà xã hội học kiểm soát chặt như của chúng ta nay, một nghệ sĩ hoài nghi các kết luận xã hội học, đề nghị nghiên cứu sâu hơn từng cá nhân riêng lẻ và rất thận trọng khi đưa ra phán quyết cuối cùng, người đó đang tiến hành một hoạt động kìm hãm mang ý nghĩa cách mạng. Có thể, chúng ta đã quá vội vã với những thay đổi nhất định mà lẽ ra phải nghiên cứu chúng kỹ hơn chăng?
- Ngân Xuyên (dịch theo bản tiếng Nga của M. Vaizel dịch từ tiếng Italia)
Về Nabokov: Vladimir Nabokov (1899-1977), nhà văn gốc Nga sống tại châu Âu, nổi tiếng nhất với tiểu thuyết Lolita (1958), một cuốn tiểu thuyết “huê tình” gây sốc cho dư luận khi được xuất bản lần đầu, nói về mối quan hệ tình ái giữa một người đàn ông châu Âu luống tuổi với một cô bé người Mỹ mới 12 tuổi.
Chú thích:
[i] Leda and the Swan, thi phẩm của W.B. Yeats, thi hào Scotland (1865-1939), tả cảnh thần Zeus trá hình làm con thiên nga để đánh lừa và cưỡng dâm nữ thuỷ thần Leda, theo thần thoại Hy lạp. Leda và con thiên nga cũng là đề tài của nhiều họa sĩ và nhà điêu khắc châu Âu – VNN.
[ii] Họa phẩm của Giambatista Pittoni (họa sĩ Ý thời Phục hưng), dựa theo điển tích “nàng Susannah tắm” (Susannah at Her Bath) trong Sách Daniel của Kinh Cựu ước. Nàng Susannah tiết hạnh đang tắm trong vườn thì có hai lão già đồi bại đến gần, dọa dẫm sẽ buộc tội nàng ngoại tình nếu nàng không hiến mình cho bọn họ. Nàng cự tuyệt và bị hai lão già vu khống tội ngoại tình, nhưng sau đó nàng được minh oan nên không bị ném đá đến chết theo phong tục thời đó. Điển tích này cũng là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật tạo hình khác. – VNN.