Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

LOLITA (Phim 1962)

 XEM ONLINE


Những tấm poster séc-xi nhất mọi thời đại








Humbert Humbert là một giáo sư Văn học Pháp đã li dị vợ. Trên đường đến nhận nhiệm vụ mới ở trường Đại học Ohio, ông đã nghé qua một thị trấn nhỏ ở New Hampsire, nhưng nào biết rằng, một cuộc tình lãng mạn nhưng cũng đầy đau thương đang chờ mình phía trước.


Câu chuyện bắt đầu vào một ngày đẹp trời, trong ngôi nhà cổ kính có vườn hoa thơm ngát, một người đàn ông trung niên trầm ngâm u buồn đã bị cuốn hút bởi ánh mắt ngây thơ của một cô gái mới lớn nghịch ngợm. Trong phút đầu định mệnh ấy, hai tâm hồn đã hòa quyện và muốn dành cho nhau tất cả.



Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

TÌNH YÊU, TÌNH DỤC, ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT PHÁP TRONG TÁC PHẨM “LOLITA” CỦA NABOKOV



Tác giả
Vladimir Nabokov (1899–1977) sinh ra trong một gia đình quí tộc lâu đời ở Saint Petersburg, ông nội là bộ trưởng bộ tư pháp dưới thời Alexander II, ông ngoại là tỉ phú khai thác vàng Rukavishikov. Vì vậy mà ông được hưởng một nền giáo dục bậc nhất của Nga thời bấy giờ. Ông giỏi nhiều thứ tiếng khác nhau và có thể viết văn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp như tiếng Nga mẹ đẻ. Năm 1918, sau khi cách mạng tháng Mười thành công, chàng thanh niên Vladimir phải cùng gia đình quí tộc của mình bắt đầu cuộc sống lưu vong cho đến cuối đời khắp châu Âu và Hoa Kì.

Lolita: Ngây thơ đến đau lòng

Video Lolita: Ngây thơ đến đau lòng

Lolita – mỗi lần cất lên từng câu chữ trầm ấm này bạn sẽ nhớ đến hình ảnh đôi bím tóc đuôi sam và ánh mắt lém lỉnh…Thế nhưng, ẩn sau hình ảnh đó là cả một số phận, một định mệnh không kìm được nước mắt…
Câu nói ám ảnh khán giả sau khi xem Lolita là lời nói sau cùng của “tội ác” vô hình: “Tôi không nghe thấy tiếng cười của em trong đám trẻ đang nô đùa…Đáng lẽ giờ này em vẫn còn đây trong niềm vui hương hoa và hưởng thụ… Tôi thầm gọi tên em và giấu đi nỗi đau trong lòng… Lolita – thiên thần của tôi….”

Lolita - Sự cam đảm mà tôi không có


Lolita!

Xem phim xong, tôi có cảm giác mình là người có quá nhiều định kiến, là bảo thủ, là khô khan, khác với những gì tôi tưởng về mình trước đây...
Có lẽ, tôi đã thoát khỏi lối suy nghĩ thường khi của một người châu Á, nhưng cái tôi muốn giữ cho mình, vì nghề nghiệp, vì nhân sinh quan, vì sở thích riêng, cũng là cái gọi là Á đông ấy..

Một cô bé 14 tuổi. Em gái tôi 14 tuổi. Ngây thơ, trong sáng. Bắt đầu ra dáng thiếu nữ, nhưng nên thơ như một vầng trăng...



Lolita - Sự nồng nhiệt của tội lỗi




Tôi đọc bài của 294u và suy nghĩ. Rồi cho đến cuối cùng, tôi vẫn không thể tha thứ cho Humbert về những gì ông ấy đã gây ra.

Tôi tự nghĩ : "trách nhiệm của người lớn là gì?". Cha mẹ tôi bảo với tôi đó là yêu thương và chỉ hướng.

Humbert đã yêu, yêu hết lòng. Nhưng ông như một đứa trẻ ngu ngơ. Ông lạc lối và kéo theo Lolita lạc lối.

Ông điên cuồng với người đàn bà trẻ con. Ông chẳng còn là gì nữa cả. Chỉ là một con yêu dục vọng.

Tình yêu ko phân biệt tuổi tác, đẳng cấp, màu da. Bạn có thể nói với tôi như thế và tôi đồng ý. Nhưng trong vai trò một người lớn, ông không đáng một con người.

Lolita – Tình yêu ngây dại


Tình – Tình là gì. Một đứa con nít 17 tuổi như tôi hôm nay lại ngỡ ngàng với câu hỏi khá quen thuộc này. Tình là gì? Phải chăng đó là tình mẹ dạt dào và ấm áp. Tình cha cao cả vững vàng. Tình anh em đoàn kết keo sơn hay tình chị em ngọt ngào và đầm ấm. Đó có thể là tình bạn thân thiết hay tình đồng chí, tình đồng nghiệp, tình bà con. Tình không chỉ giới hạn bởi tình cảm giữa con người với nhau mà đôi khi nó chỉ đơn giản là sở thích của con người với một vật, một lĩnh vực nào đó. Tình yêu loài vật, tình yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu âm nhạc, yêu sự tìm tòi sáng tác cũng được gọi là Tình. Cao cả và trừu tượng hơn hơn có lẽ là tình xóm giềng, quê hương, đất nước. Cũng có lúc tình không cẩn một đối tượng thứ hai để diễn tả giãi bày, đó là lòng yêu thương chính bản thân mình. Và tình … có thể là tình dục hay tình yêu. Khi nói đến tình yêu thì thật là bao la và khó tả. Bao la vì đã có quá nhiều người nói về nó, hát về nó, ca ngợi oán trách hay thậm chí chết vì nó. Khó tả vì đó là một từ ngữ không thể nào định nghĩa chính xác. Có phải vì “Yêu” mà Tình lại có thêm hai tiếp đầu ngữ nữa là “Thất” và “Lụy”. Thất tình là không có được tình yêu, đánh mất tình yêu. Lụy tình là yêu quá nhiều, yêu người khác một cách không cần thiết.
Có lẽ Humbert đã để cho tình dắt mình đi quá xa. Nhiều lần Humbert trốn tránh, ông cố ý đặt hai phòng ở khách sạn đi ra ngoài chờ Lolita ngủ rồi mới trở về phòng. Nhưng một điều cần phải hiểu là Humbert là con người. Mà đã là con người thì đôi khi không thể từ chối dục vọng. Thêm một điều nữa là Humbert đã từng có một mối tình ngủ yên với Annabel khi còn 14 tuổi và từ đó ông không một ai nữa có thể đánh thức mối tình này, cho đến Lolita. Lolita đã đánh thức Annabel trong Humbert và Humbert đã không làm chủ được mình.

Thù hận giữa các nhà văn


Sinh nhật lần thứ 80 của Márquez, văn đàn thế giới đã phấp phỏng chờ đợi cuộc làm lành giữa García Márquez và Vargas Llosa. Nhưng vết thương lòng của cú đấm 30 năm trước vẫn chưa đến hồi lành lặn.
Mang cái tôi khổng lồ, nhà văn dường như rất giỏi gây chiến với nhau nhưng lại quá rụt rè trong việc hòa giải. Dưới đây là những vụ đụng độ chưa có hồi kết giữa các nhà văn trên thế giới.

Vladimir Nabokov và niềm say mê nghiên cứu loài bướm

7 tuổi, như bao đứa trẻ khác, Vladimir Nabokov cũng là một cậu bé mê đuổi hoa bắt bướm. Nhưng hàng chục năm sau, khi đã trở thành nhà văn nổi tiếng trên thế giới, ông vẫn không thôi say mê những cánh bướm nhiều sắc màu. Bên cạnh văn chương, Nabokov còn có một tình yêu lớn dành cho côn trùng học.

Thói quen viết lách ngộ nghĩnh của các nhà văn Mỹ

Trong một ngày, James Joyce chỉ sáng tác được 3 câu, còn Truman Capote chỉ thích nằm để viết. Nhiều nhà văn Mỹ có thói quen ngộ nghĩnh trong khi sáng tác.

1. Stephen King
Stephen King là một trong những nhà văn sáng tác nhiều nhất nước Mỹ.
Trong cuốn sách On Writing (Bàn về công việc viết văn), King cho biết, trong một ngày ông có thể viết liền một mạch 10 trang bản thảo mà không phải sửa chữa gì nhiều, thậm chí ông sức làm việc của ông trong những ngày nghỉ lễ cũng như vậy. Chính vì làm việc như vậy mà đến tận hôm nay King luôn được công nhận là một trong những nhà văn có sức viết khỏe và bền nhất nước Mỹ.

Nhà văn thành bại vì vợ



Vợ của Vladimir Nabokov, James Joyce, F. Scott Fitzgerald tuy xuất thân, nghề nghiệp khác nhau, nhưng có chung một điểm là ảnh hưởng mạnh mẽ đến các đấng phu quân nổi tiếng. Những người phụ nữ này có thể giúp chồng tìm kiếm vinh quang song cũng có thể kéo chồng xuống tận cùng đau khổ.

Vera Nabokov, người vợ tận tâm với chồng

Nếu không có Vera Nabokov thì có lẽ ngày nay không ai còn biết đến tiểu thuyết Lolita.

Điều đó không có nghĩa Vera Nabokov chính là nguồn cảm hứng cho hình ảnh của cô gái trẻ đẹp, gợi cảm trong cuốn sách nổi tiếng này, mà chỉ đơn giản bà đã cứu được cuốn sách khỏi đống tro tàn khi Nabokov quyết định đốt nó và quẳng vào sọt rác.

Từ văn học đến điện ảnh

Đó là lí do vì sao những bộ phim dựa trên tác phẩm văn học lại hấp dẫn đến vậy. Đó là hình thức để cả hai loại phương tiện đều làm việc – tác giả văn học sáng tạo nên, phác thảo và viết chi tiết về một câu chuyện, còn đạo diễn/biên kịch lại vẽ lại bằng hình ảnh để mang đến cho người xem. Ngoài ra, đó là chúng ta đang xem cách hiểu của nhà đạo diễn với cuốn sách - tất cả những tình tiết mà chúng ta đã mường tượng ra trong đầu trong lúc đọc sách. Đôi khi nếu chúng ta mang đến cho người đọc một câu chuyện tình tiết nghèo nàn hoặc đạo diễn dở thì kết quả sẽ thật là đáng thất vọng. Đôi khi, chỉ đôi khi thôi, khi bạn kết hợp một tác phẩm văn học tuyệt vời và một nhà làm phim hoàn toàn rất tài năng và sáng tạo thì sẽ thu được một kết quả rực rỡ. Cuốn sách thực sự sống với đời thực.

Người phụ nữ làm nên Nabokov



Bà tên là Vera, là một bằng chứng cho câu ngạn ngữ đại ý nói rằng đàng sau người đàn ông vĩ đại luôn luôn có dáng hình người phụ nữ còn vĩ đại hơn. Sinh ra ở S. Perterburg trong một gia đình Do thái thượng lưu, là một phụ nữ trí thức và được giáo dục hết mực, bà đã hiến dâng 52 năm đời mình cho chồng - nhà văn Vladimir Nabokov, bỏ qua cho ông những cuộc ngoại tình và nhận hết phần lỗi về mình. Bà làm tất cả để thiên tài văn học của ông trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới, cứu bản thảo tiểu thuyết “Lolita” khỏi bị cháy. Thi hài bà yên nghỉ dưới tấm bia mộ với dòng chữ: “Người vợ, Nàng thơ và Người đại diện”.

Time chọn "10 cuốn sách hay nhất mọi thời"

Tháng 1-2007, tạp chí Time (Mỹ) đã công bố kết quả khảo sát ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời (phương Tây) như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King,... để tìm ra "The 10 Greatest Books of All Time". Câu hỏi duy nhất mà tạp chí này đặt ra cho các nhà văn là liệt kê 10 cuốn sách vĩ đại nhất theo ý họ.

Có 544 cuốn sách được nêu tên và 10 cuốn có số phiếu cao nhất theo thứ tự giảm dần là như sau:


- Anna Karenina - Leo Tolstoy
- Madame Bovary (Bà Bovary) - Gustave Flaubert
- War and Peace (Chiến tranh và Hòa bình) - Leo Tolstoy
- Lolita - Vladimir Nabokov
- The Adventures of Huckleberry Finn (Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn) - Mark Twain
- Hamlet - William Shakespeare
- The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại) - F. Scott Fitzgerald
- In Search of Lost Time (Đi tìm thời gian đã mất) - Marcel Proust
- The Stories of Anton Chekhov (Tuyển tập truyện ngắn Anton Chekhov) - Anton Chekhov
- Middlemarch - George Eliot

Đáng chú ý là chỉ có 4 nền văn học Nga, Pháp, Anh, Mỹ lọt vào chung kết, trong đó Nga có tới 4 cuốn được chọn với Anna Karenina đứng đầu bảng và Leo Tolstoy xứng đáng là văn hào số một khi ông là tác giả duy nhất có 2 tác phẩm thuộc danh sách vinh quang này.


Trích nguồn Đông tác giao lưu 

VLADIMIR NABOKOV (1899-1977) MỘT HIỆN TƯỢNG ĐẶC BIỆT TRONG VĂN HỌC


Trong lịch sử văn học thế kỷ 20, Vladimir Nabokov giữ vị trí độc nhất vô nhị, là người viết giỏi đồng thời bằng hai thứ tiếng: Nga và Anh. Được sinh ra ở nước Nga, ông luôn mang theo mình những hồi ức về quê hương, thể hiện chúng trong hàng chục tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau và trở thành một trong những gương mặt hàng đầu của nền văn học Nga. Ông đồng thời cũng được coi là nhà kinh điển của nền văn xuôi Mỹ hiện đại, là người mà các nhà văn “bản xứ” như K.Wonnegut, J. Bart, T.Pinchon, T.Sazern tôn vinh là vị tiền bối gần gũi của mình. Với mảng tác phẩm được viết bằng Anh ngữ, dường như Nabokov là nhà văn được sinh ra ở bên kia bờ Đại Tây Dương, chứ không phải là người Nga. 


Nhà văn nổi tiếng đau đầu khi đặt tên sách

Catch-22 (1961) – Joseph Heller

 

Catch-22 là cuốn tiểu thuyết có tiêu đề rất khó dịch sang các ngôn ngữ khác. Sau khi tác phẩm này được xuất bản, Catch-22 trở thành một khái niệm mới, được bổ sung vào kho từ vựng tiếng Anh. 


Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Vladimir Nabokov - “Gã ta là quái vật! … Nhưng là nhà văn tuyệt vời!”


I. Bunin (Nobel văn học năm 1933) đã từng thốt lên lên như thế về Vladimir Nabokov, tác giả của tiểu thuyết "Lolita" nổi tiếng.



Bi kịch Nabokov

Chỉ với cuốn tiểu thuyết Lolita, Vladimir Nabokov (1899-1977) được xếp vào hàng tiểu thuyết gia xuất sắc nhất của thế kỷ 20, và dù có bề dày tác phẩm đáng kể, ông không bao giờ quay lại được đỉnh cao ấy nữa. Nỗ lực cuối cùng là tiểu thuyết The Original of Laura còn dang dở, và ông muốn đổi tập bản thảo để không ai nhìn thấy cố gắng đầy tuyệt vọng cuối đời ấy của mình. Người con trai ông giờ đây lại có ý định thực hiện ước nguyện đó của ông, bởi các nhà “Lolita học” (những người nghiên cứu tiểu thuyết Lolita và “hiện tượng Lolita” trong văn học)
Con trai của Vladimir Nabokov lại đe doạ sẽ đốt một bản thảo tiểu thuyết di cảo của cha mình. Lý do là vì cho đến nay vẫn có nhà phê bình văn học phân tích sai tinh thần của tiểu thuyết Lolita, kiệt tác văn học của Vladimir Nabokov.

Original of Laura (Nguyên bản Laura) - Vladimir Nabokov

Nguyên bản Laura là một bản thảo quyển tiểu thuyết chưa hoàn thành của văn hào Vladimir Nabokov. Sau hơn 30 năm nằm trong hộp lưu trữ của ngân hàng vì tác giả muốn vợ ông thiêu hủy nếu ông không kịp hoàn thành, mới đây Dimittri Nabokov con trai tác giả đã cho ra mắt tác phẩm này và lập tức sự kiện này tạo nên những nguồn dư luận trái chiều khá sôi nổi ở Mỹ.

Trong tháng 11 vừa qua có thể nói việc xuất bản quyển tiểu thuyết chưa hoàn tất Original of Laura/Nguyên bản Laura của nhà văn Vladimir Nabokov là sự kiện văn chương nổi bật nhất. Như chúng ta biết, Vladimir Nabokov tác giả của tiểu thuyết Lolita là một trong không nhiều những nhà văn có tầm vóc lớn nhất của văn chương thế giới thế kỷ 20. Tầm vóc này không những được xác định bởi ảnh hưởng của ông đối với những nhà văn thế hệ sau mà còn bởi thành tựu đẩy xa tiểu thuyết, vượt bỏ tiểu thuyết đương đại, đi tiên phong trong sự phát triển của tiểu thuyết bước vào thời hậu hiện đại.

Là một nhà văn di dân Nga, đã từng trải qua kinh nghiệm khó khăn nhọc nhằn trong việc tạo được tiếng tăm, thành công lớn, và vì vậy sống được bằng tác phẩm – chỉ một thiểu số rất nhỏ những nhà văn di dân đến Mỹ làm được – và nhất là kinh nghiệm đớn đau phải từ bỏ tiếng Nga mẹ đẻ để sáng tác bằng Anh văn. Vladimir Nabokov từ trần năm 1977, để lại bản thảo một tiểu thuyết viết dở dang là quyển Laura.

Vào mùa thu năm 1976, khoảng một năm trước khi từ trần, tờ The New York Times Book Review làm một cuộc thăm dò ý kiến một số nhà văn nổi tiếng – trong đó có Vladimir Nabokov – hiện họ đang đọc sách gì, thì Nabokov cho biết khi nằm trong một bệnh viện ở Lausanne mùa hè vừa qua, ông đã đọc quyển Địa ngục của Dante, quyển sách nghiên cứu về Bướm ở Bắc Mỹ của William H. Howe, và quyển Original of Laura là một tập bản thảo chưa hoàn tất của quyển tiểu thuyết ông đã khởi viết từ trước khi ngã bệnh.

Tuy chưa viết xong nhưng ông cho biết đã hoàn tất tác phẩm này trong đầu, và “tiếp tục đọc lớn cho một đám thính giả trong mộng tại một khu vườn có tường vây kín. Thính già của tôi gồm có những con công, bồ câu, cha mẹ tôi đã khuất núi từ lâu, hai cây sồi, một vài nữ y tá ngấp nghé đây đó, và một vị bác sĩ gia đình già đến nỗi hầu như vô hình dạng.

Có lẽ cũng bởi vì tôi cứ chúi xuống và ho xù xụ cho nên câu chuyện về cô Laura đáng thương của tôi không mấy thành công đối với những thính giả đó của tôi bằng sự thành công của quyển sách sau này khi được xuất bản một cách đàng hoàng, tôi hy vọng như thế, đối với những người viết điểm sách thông minh.”

Vladimir Nabokov cũng có đặt cho quyển Laura một tựa đề phụ Chết Cũng Thú (Dying Is Fun).

Khi còn sống Nabokov có dặn dò Vera vợ ông là chỉ được cho xuất bản quyển Laura sau khi ông đã hoàn thành, bằng không hãy đem đốt hết bản thảo quyển sách. Nhiều năm trước đó, với quyển Lolita, Nabokov cũng đã hai lần định hỏa thiêu bản thảo nếu như người đời không hiểu tác phẩm này. Và Vera đã thành công ngăn cản chồng trước khi quyển Lolita được người đọc hâm mộ, đem lại thành công lớn cho Nabokov.

Sau khi chồng chết bà Vera lưu trữ bản thảo quyển Laura trong một ngân hàng Thụy Sĩ, chần chừ không chịu đem đốt như lời dặn dò của chồng. Sự chần trờ của Vera theo người đời xét đoán có thể vì tình yêu lớn lao của bà dành cho chồng, phần khác là vì tuổi già, bệnh hoạn, nên không thể cương quyết nữa.

Hơn một năm trước đây người con trai duy nhất Dimitri Nabokov đem việc xuất bản quyển Laura ra tham khảo ý kiến một số người, phần đông là các học giả và những chuyên gia nghiên cứu Vladimir Nabokov, thì người bảo nên xuất bản, người bảo không và khuyên Dimitri Nabokov nên thực hiện ý kiến của cha anh. Cuối cùng Dimitri đã làm ngược ý kiến của Vladimir Nabokov, giao cho nhà xuất bản Alfred A. Knopt xuất bản tác phẩm này.

Quyển sách được nhà xuất bản chăm lo khá tốt, nhưng khi ra mắt bị phần đông giới học giả, nhà văn, phê bình, điểm sách không hoan nghênh.

Quyển Laura khi được xuất bản dày 278 trang, sau bài tựa của Dimitri Nabokov là hình in 138 tấm thẻ phía dưới đôi khi có những giòng chữ viết tay của tác giả. Như chúng ta đã biết Vladimir Nabokov có thói quen trước khi viết bản thảo một tác phẩm, ông dùng những tấm thẻ để ghi chú những chi tiết khá đầy đủ về nhân vật, cảnh thổ, biến sự, cốt truyện v.v…

Ta có thể coi những tấm thẻ này như những bản nháp cuốn truyện. Thường những tấm thẻ này tuy đã được Nabokov đánh dấu thứ tự kỹ lưỡng, nhưng khi tác phẩm đã “hoàn tất trong đầu ông” thì Nabokov sẽ sắp lại trật tự những tấm thẻ đó. Một đặc điểm của Nabokov là ông sửa lại bản thảo rất kỹ, chọn chữ dùng sao cho đúng ý, câu văn chính xác đến độ kết tinh. Thế nhưng, trong quyển Laura những đặc điểm này không có, chính vì quyển sách mới ở dạng bản thảo chưa hoàn tất.

Đọc văn của Vladimir Nabokov chúng ta thấy bên dưới những giòng tản văn lóng lánh nhẹ nhàng vẫn có nỗi u hoài của kẻ vô xứ, sự khắc khoải về cái chết, về tuổi già cho dù khi ông viết về tình dục. Nabokov là nhà văn cho nhân vật chết đi một cách dễ dàng, bằng nhiều cách, chẳng hạn chết cháy, bị đầu độc, tự sát, tai nạn xe cộ, siết cổ, bị bắn, hoặc bị bệnh hoạn, hay xử bắn. Nhưng trong quyển Laura ông đã cho nhân vật Philip Wild tự làm mình chết dần từng phần thân thể vì theo anh ta “Diễn tiến chết bằng cách tự tan rã cho con người sự xuất thần lớn lao nhất.”

Tuy quyển Laura được xuất bản dưới dạng những mảng văn đứt rời, không thứ tự, khi đọc chúng ta cũng thấy được Nabokov định kể lại câu chuyện của hai nhân vật: nhân vật Flora 24 tuổi có sắc đẹp nóng bỏng và người chồng lớn tuổi mập ú lùn tịt nhưng lại là một bác sĩ thần kinh nổi tiếng Philip Wild của cô.

Flora được tác giả cho bắt đầu xuất hiện trong cảnh cô vừa qua một đêm ngoại tình ở nhà tình nhân. Tính cách của Flora là ưa chung chạ, không có tình yêu, sau khi ngủ với một tình nhân này là có cái thú tìm liên hệ với một người tình mới, cắt đứt liên hệ với tình nhân một cách tàn bạo không nương tay.

Nabokov tả cảnh buổi sáng từ nhà tình nhân trở về nhà mình Flora dửng dưng khi thấy chồng cô đang ục ịch “có cặp bàn chân nhỏ một cách tức cười” đi dạo, tay dắt con mèo xọc vằn bằng sợi dây buộc cổ dài thoòng. Khi Flora mở cửa vào nhà, Philip bế con mèo lên và theo chân vợ vào nhà. Còn con mèo thì lại say mê nhìn con rắn đang trườn bò trên mắt đất. Kiểu tả cảnh này rõ là lối tả cảnh của riêng Nabokov.

Flora có một quá khứ thảm khốc: cha cô là một tay thợ chụp hình mắc chứng đồng tính đã tự sát sau khi khám phá ra đứa con trai ông yêu đã bóp cổ chết một đứa con trai ông ta không thể gần gũi được. Còn mẹ của Flora là một vũ công ba-lê đã đem những tấm hình chân dung tự chụp khi tự sát lấy bán cho một tờ báo lá cải, rồi ngay sau đó dan díu với một tình nhân già người Anh hình như tên là Hubert H. Hubert (cái tên này nhắc người đọc liên tưởng đến nhân vật Humbert Humbert trong quyển Lolita). Khi Flora mới lớn Hubert Hubert đã có lần gạ gẫm cô bé nhưng bị cô tặng cho một cú đá vào chỗ hiểm.

Tuy bị vợ phản bội, thân thể càng ngày càng già nua, mắc chứng đau bụng kinh niên, có hình dạng kỳ khôi, nhưng Philip lại đang mải miết làm những cuộc thí nghiệm cực kỳ quái đản anh ta đặt tên là “tự tiêu tan,” một diễn tiến xuất hồn khi anh ta tự đặt mình trong trạng thái bị thôi miên ngây dại, đùa rỡn với tử thần bằng cách làm cho những phần thân thể mình biến mất trong suy nghĩ.

Philip kể: “Cho tới nay tôi đã chết đến lỗ rốn được năm mươi lần trong khoảng không đến ba năm.” Philip đã ghi chép lại tất cả những cuộc thí nghiệm thành một bản thảo.

Ngoài truyện về Philip, quyển Laura cũng còn chứa một tiểu thuyết bán chạy như tôm tươi tựa đề Laura của tôi do một tình nhân cũ của Flora viết về cuộc đời tình ái của nàng. Như thế Flora chính là nguyên bản của Laura. Philip Wild ca ngợi quyển Laura của tôi là một “kiệt tác điên khùng.”

Nabokov cũng cho ta thấy cảnh Flora mua một quyển Laura của tôi nhưng cầm trên tay ngồi thừ ra chưa bắt đầu đọc quyển truyện. Trong tấm thẻ cuối cùng Nabokov úp mở tiết lộ bản thảo quyển Laura của tôi bi đánh cắp một cách bí mật. Và bản thảo của Philip về những thí nghiệm tự hủy cũng không được xuất bản vì anh đã từ trần vì chứng đau tim.

Đó là sơ lược cốt truyện Nabokov để lại trong những tấm thẻ và những đoạn văn đứt quãng. Người đọc tất nhiên không thể thỏa mãn khi đọc một quyển truyện chưa hoàn tất, nhất là đó lại là tác phẩm của một văn hào là Vladimir Nabokov. Cho nên câu hỏi đặt ra là: Có nên xuất bản tác phẩm dở dang này cho công chúng đọc không?

Những người phản đối Dimitri Nabokov con trai tác giả cho rằng Dimitri đã làm hại thanh danh của cha khi quyết định đem in quyển sách. Có thực những tấm thẻ, theo lời Dimitri có “biểu trưng cho sự tinh lọc nhất” sự sáng tạo của cha anh không? Có thực tập bản thảo đứt khúc này dựng nên cái khung để thể hiện “một quyển sách sáng chói, độc đáo, và có khả năng là một quyển sách cơ bản không? Hay tập bản thảo dở dang này chỉ gây ra cảm nghĩ bối rối cho người đọc?

Ngoài những lời chỉ trích Dimitri Nabokov qua những câu hỏi kể trên, nhà văn nữ người Anh Jeanette Winterson còn chê khả năng viết Anh văn của Dimitri Nabokov trong bài tựa cho quyển Nguyên bản Laura. Còn phía đồng ý nên cho xuất bản quyển Nguyên bản Laura thì cho rằng đây là một tác phẩm có giá trị đặc biệt giúp chúng ta tìm hiểu nghệ thuật viết tiểu thuyết của bậc thầy Vladimir Nabokov.

Đào Trung Đạo

Lolita, một trong 10 cuốn sách bị kiểm duyệt nổi tiếng nhất

Khi các nhà xuất bản in một phiên bản mới tác phẩm kinh điển của Mark Twain The Adventures of Huckleberry Finn không có vết nhơ phân biệt chủng tộc, TIME nhìn lướt qua những cuốn khác đã từng bị cắt xén.

Sau đây là những câu chuyện về Lolita, một trong 10 cuốn sách nổi tiếng nhất bị kiểm duyệt:

Được xuất bản lần đầu tiên ở Pháp bởi một tờ báo khiêu dâm, cuốn tiểu thuyết năm 1955 này khảo sát trí óc của một kẻ dâm ô với trẻ em rất thông minh và tự ghê tởm bản thân tên là Humbert Humbert, tự kể chuyện đời gã và những ám ảnh đã làm tiêu tùng đời gã: gã say mê những “nữ thần tình dục” non tơ, như Dolores Haze 12 tuổi. Các quan chức Pháp - cũng như Anh, Argentina, New Zealand và Nam Phi - cấm nó vì tính “khiêu dâm.” Ngày nay, chữ “Lolita” đã ngụ ý một thiếu nữ tuổi “teen” gợi dục quá độ, mặc dù Vladimir Nabokov về phần mình không bao giờ có ý định tạo ra sự liên tưởng ấy. Thật ra, ông đã gần như đốt cháy bản thảo vì ghê tởm, và phải đấu tranh với các nhà xuất bản xung quanh việc có nên đưa hình một cô gái lên trang bìa cuốn sách hay không.

Đầu Chiến tranh Thế giới Thứ hai, một trong những nhà văn xuất sắc nhất từng nhập cư vào Hoa Kỳ, đến New York từ Pháp. Vladimir Nabokov là một người Nga không tổ quốc. Không giống Oscar Wilde, người trước đây cũng tại cảng này nói không có gì để khai ngoài thiên tài của mình, Nabokov khai một bộ găng quyền Anh. Hai thanh tra hải quan mỗi người đeo vào một đôi và vui vẻ đấm một hiệp giao hữu rồi cho qua mọi thứ. Nhưng chính Nabokov mới là người thắng hiệp đấu này, vì ông đã đưa lậu vào nước này một tài năng lớn hơn và xì căng đan hơn Wilde.

Hành trang trí thức của Nabokov bao gồm những đoạn của một quyển sách mà sau này xuất bản ở Paris năm 1955, đã trở thành một khoản không thể thiếu trong ngành kinh doanh đồ quốc cấm trong đó những cuốn Tropic của Henry Miller đóng một vai trò quan trọng. Ngày nay, sau nhiều năm nổi tiếng “ngầm”, Lolita cuối cùng đã tìm thấy một nhà xuất bản ở Mỹ. Theo sau những cuốn tiểu thuyết xuất sắc, khác thường của Nabokov, Lolita đã đem lại cho tên tuổi ông tầm cỡ thật sự và đưa một công chúng rộng lớn ở Mỹ đến với tài năng đặc biệt của ông - cái tài xử lý đời sống như thể nó được một nhà thơ điên sáng tác ra trong một đêm xuân.

Lolita là một kiệt tác hư cấu, nó cũng là một cuốn sách gây sốc. Được đề tựa bởi một tay hàn lâm lý thuyết suông óc bã đậu giới thiệu nó như là một thông điệp cho “các bậc cha mẹ, những người làm công tác xã hội, những nhà giáo dục,” cuốn sách miêu tả sự trác táng xuyên lục địa của một cô gái mười hai tuổi qua lời một gã đàn ông trung niên độc tưởng. Hóa ra người kể chuyện đang viết lời biện giải của hắn trong một xà lim nhà tù (hắn bị xử về tội giết người). Về khía cạnh gợi dục, cuốn sách kể ít về những điều chưa được nói đến trong nhiều tiểu thuyết ăn khách; nhưng ở những chỗ mà các tiểu thuyết ăn khách nói về những sự thật nhớp nhúa và bi thảm của đời sống trong xã hội học gay gắt, biệt ngữ ẩn hoặc những từ bốn-chữ-cái, Lolita gây sốc hơn bởi vì nó vừa trữ tình dữ dội vừa tức cười một cách hoang dại. Trong nhiều trang, nó là cái đầu Medusa với những con rắn bằng giấy đánh lừa, và những trò chơi chữ hài hước của nó cũng như chất thơ tăm tối của nó, vốn thuộc một dòng dõi trang trọng, sẽ làm thất vọng những kẻ tục tĩu ti tiện.

Vương quốc bên bờ biển. Người kể chuyện châu Âu trong cuốn tiểu thuyết tự gọi mình là Humbert Humbert và cái tên lặp này tạo nên cái giọng tự giễu - tiếng cười cật vấn về giá trị thậm chí của thất vọng - trong khắp cả cuốn sách. Cái ám ảnh nghiệp chướng, đê tiện của Humbert, là với những cô gái trong vòng 9-14, không phải là những cô bé bình thường mà thuộc loại đặc biệt mà gã gọi là “những nàng tiên cá” (nymphet). Như Humbert giải thích trong một đoạn điển hình cho văn phong của gã: “Mi phải là một nghệ sĩ và một thằng điên, một tạo vật buồn muôn thuở, với một bọng chất độc nóng sôi nơi hạ bộ và ngọn lửa nhục dục cháy rực trong từng đốt xương sống nhạy cảm của mi (ồ, sao mi phải co ro dấu giếm thế) mới có thể phân biệt ngay tức khắc, bằng những dấu hiệu khó nói - cái đường nét nham hiểm của xương gò má, cái mảnh mai của đôi cẳng tay phủ đầy lông tơ, và những dấu chỉ khác mà nỗi thất vọng, sự hổ thẹn và những giọt lệ dịu dàng đã cấm không cho ta kể hết - con quỷ nhỏ chết người giữa những đứa trẻ lành; nàng đứng đó, lạc loài giữa những đứa trẻ đồng trang lứa, và tự mình không có ý thức về sức mạnh kỳ quái của mình.”

Cái ám ảnh của Humbert bắt đầu tại một khu nghỉ dưỡng mộng mơ nằm xa khuất bên bờ biển, nơi gã gặp và yêu mê mệt một cô gái - cả hai ở cái tuổi 13, con số bất hạnh. Vì Humbert quen với lối nói văn vẻ tinh quái, tên cô gái, tất nhiên, là Annabel Leigh (Poe đọc thành Lee). Sau khi mối tình đầu đời của Humbert bị đứt đoạn bởi nỗi ô nhục và cái chết, gã không ngừng đi tìm lại cái vương quốc ấu thơ đã mất bên bờ biển. Gã lục tìm trong những catalô gái đĩ Paris, thông qua một đám cưới hài hước rẻ tiền, qua Công viên Trung tâm - cho đến khi gã tìm thấy hóa thân của Annabel trong Dolores Haze, được biết dưới cái tên Lolita. Nàng là con gái bà chủ nhà muốn tỏ ra có văn hóa trong một thị trấn nhỏ New England nơi Humbert ẩn núp để cho ra đời một tác phẩm văn chương. Cô bé chỉ là một đứa trẻ chớm tuổi teen, suốt ngày nhai kẹo cao su, nốc Côca và được giáo dưỡng bằng truyện tranh, nhưng là mối tình định mệnh của Humbert.

Hề kịch cuối cùng. Humbert cưới mẹ Lolita để được gần cô bé. Người mẹ, đọc nhật ký của Humbert phát hiện ra những ham mê thật sự của gã, quẫn trí chạy ra khỏi nhà và bị một chiếc ô tô cán chết. Bây giờ mới bắt đầu cái chuyện cực kỳ khó coi là việc Humbert cố quyến rũ con riêng của vợ gã - cái âu yếm vụng về, cái tình cha dỏm, cái âm mưu quỷ quyệt, cái khát khao đau đớn mà Tác giả Nabokov cố gắng làm thành vừa lố bịch vừa khủng khiếp mà vẫn thật sự thuyết phục. Nhưng cuối cùng, như Humbert tự kể, “chính nàng đã quyến rũ tôi... Việc học chung nam nữ, những tập tục vị thành niên, những huyên náo nhộn nhạo đêm lửa trại, và vô vàn những thứ như thế đã làm đồi trụy nàng cùng cực và không sao cứu vãn.”

Sau khi kết thúc trò nhại nếp sống gia đình tươm tất, “Hum” và “Lo” lao vào một trò nhại loạn luân nó đưa hai người đi xuyên lục địa. Họ đi không ngơi nghỉ qua những quang cảnh sáng ánh đèn neon của những trạm xăng, những tiệm ăn, những thị trấn nhỏ, những ô tô và nhựa đường, những motel nơi đất đóng băng vĩnh cửu, nơi mà nếu người ta trả phòng vào buổi trưa, người ta có thể chạy đến hết đêm.

Dọc đường đi của Humbert và Lolita có những cảnh trớ trêu khủng khiếp. Tại một khách sạn có biển báo MIỄN PHÍ CHO TRẺ EM DƯỚI 14 TUỔI. Nhưng phần thật sự khủng khiếp của cuốn sách là cái kiểu cách quan hệ thân mật trong đó người đọc được hé cho thấy một loại dấu vết của cuộc sống tốt lành nổi bật lên từ một mối quan hệ kỳ quái như thế nào. Humbert, người cha dỏm, thường xuyên trở thành một người cha-vờ thật sự âu yếm; Lolita, đứa trẻ đồi bại, trở thành thật sự ngây thơ. Ở cuối truyện - trong nỗi đau xé ruột của Humbert - nàng có mang và hạnh phúc với một anh chồng trẻ đần độn. Nàng đã trốn đi, nhưng Humbert thì không có chỗ nào mà trốn chạy. Gã tìm ra một tay nhà văn giàu có và ẻo lả, kẻ trước đây đã đôi lần quyến rũ nàng, và trong một cảnh bạo lực khủng khiếp của vở hề kịch, gã bắn chết y.

Trong xe buýt nhà trường. Nếu tính chất hề vang lên rộn rã trong suốt câu chuyện, thì lý do là vì bản thân tác giả Nabokov là một người hài hước không nín được, ông có thể nhìn thấy bi kịch thông qua tiếng cười cũng rõ ràng như ông có thể thấy mặt đen tối của cuộc đời từ điểm ưu thế êm đềm nhất của nó. Nabokov dạy văn học châu Âu ở Cornell, và cũng là một nhà nghiên cứu tận tâm các loài bướm, ông đã phát hiện ra hàng chục giống loài. Ông từ chối tất cả chỉ trừ một mối quan tâm của nhà văn về “các nàng tiên cá”. Để nghe được thứ tiếng lóng của lũ trẻ choai, ông đã đi trên một chiếc xe buýt chở học sinh đi học. Rõ ràng ông cũng học được nhiều từ đời sống hè phố của nước Mỹ. Ông nói: “Tôi thích các motel. Tôi muốn có một dãy motel làm bằng đá cẩm thạch… Tôi sẽ đặt chúng cách nhau mười phút chạy xe dọc xa lộ, và tôi sẽ đi từ cái này sang cái khác với chiếc vợt bắt bướm của tôi.”

Nabokov sẵn sàng chấp nhận cái ý nghĩ rằng Lolita sẽ bị tấn công về phương diện đạo đức, nhưng ông hài hước hỏi các tiêu chuẩn đạo đức của ít nhất một nhà xuất bản Hoa Kỳ nằm ở đâu. Ông cho biết có một công ty nhận xuất bản cuốn sách từ ba năm về trước, nếu ông biến Lolita từ một cô bé thành một cậu trai - có lẽ đồng tính luyến ái dễ được chấp nhận hơn chứng si mê nymphet nhiều.

Im lặng trên đường phố. Một số nhà phê bình vươn tay ra đến nhà văn gần gũi nhất với họ là Dostoevsky, nhưng bản thân Nabokov không thèm so sánh với các nhà văn Nga khác, ông coi họ là những nhà văn vụng về và dung tục. Tuy nhiên tình tiết tội phạm bị đàn áp trong Những kẻ bị quỷ ám của Dostoevsky gợi nên sự tương tự với Lolita. Stavrogin, quái thai đạo đức của Dostoevsky quyến rũ một đứa trẻ ngây thơ. Chỗ khác nhau là Stavrogin kể về tội ác của hắn để chứng tỏ rằng hắn có khả năng làm được, nhân vật của Nabokov kể câu chuyện đau khổ quằn quại của gã để cho thấy gã không thể không phạm nó. Trong thế giới của Nabokov, tội ác tự trừng phạt chính nó, và những kẻ bị ám không phải bị ám bởi quỷ, mà bởi chính bản thân chúng.

Trong đoạn văn cuối cùng của Lolita, khi Humbert đợi cảnh sát đến, gã đã đi đến chỗ hiểu bản chất thật của tội ác của gã. Gã nhớ lại, trên một sườn đồi tối đen, gã đã nghe từ bên dưới “một câu chuyện tầm pháo với những giọng nói chen lẫn nhau, trang trọng và vụn vặt, vô cùng khó hiểu… và sau đó tôi biết rằng điều cay đắng vô vọng không phải là việc Lolita vắng mặt khỏi cuộc đời tôi, mà là sự vắng mặt của giọng nói nàng trong bản hòa âm ấy.” Cũng như vậy khi nhân vật Stephen của James Joyce đứng trong trường lắng tai nghe những giọng nói của bọn trẻ con đang chơi. “Đó là Thượng đế,” Stephen nói, “một tiếng la hét trong đường phố.” Nabokov dường như cũng quả quyết rằng tất cả mọi tạo vật đều là Thượng đế, và rằng Humbert, trong lúc vô vọng lắng nghe tiếng cười của một đứa trẻ, đã biết điều đó trong một kết thúc cay đắng.
Hiếu Tân


Tình yêu hiện đại qua mắt tác giả “Lolita”

VietNamNet: Trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Ý Alberto Ongaro vào năm 1966, Vladimir Nabokov đã nói về niềm tin vững chắc của ông rằng không thể coi nhẹ tình yêu, một trong những tình cảm tự nhiên và đẹp nhất của con người. Ông khẳng định, tình yêu hiện đại không phải đang "diễn ra trên chỗ trống cảm xúc và đem luân lý xác thịt đặt vào chỗ luân lý tình cảm" như nhiều người thường nghĩ.

Tiểu thuyết của Nabokov và Marquez bị đề nghị cấm

Vsevolod Chaplin - mục sư hàng đầu tại Nga - đang kêu gọi chính phủ nước này ban hành lệnh cấm đối với các tiểu thuyết kinh điển của hai nhà văn lớn Vladimir Nabokov và Gabriel Garcia Marquez.

Chaplin cho rằng, những tiểu thuyết như Lolita của Nabokov và One Hundred Years of Solitude (Trăm năm cô đơn) của Marquez sẽ làm băng hoại nền tảng đạo đức của nước Nga.



Bìa cuốn Lolita

“Hai tác phẩm này đã lãng mạn hóa những niềm đam mê tội lỗi khiến con người phải khổ sở. Rõ ràng là việc phổ biến chúng rộng rãi bằng cách đưa vào sách giáo khoa sẽ làm hỏng các giá trị đạo đức của chúng ta”, Chaplin chia sẻ với Interfax.

Nhận định này khiến văn giới và các học giả Nga bị sốc. Họ phản ứng lại bằng cách gọi đó là quan điểm “ngu ngốc và nguy hiểm”.

Mikhail Shvydkoy - người phụ trách các vấn đề quan hệ văn hóa quốc tế của Nga - nhận xét: “Những phân tích như thế sẽ làm hại đến hình ảnh nước Nga trong mắt công chúng thế giới. Tất nhiên, có những cuốn sách chúng ta không khuyến khích trẻ em đọc quá sớm. LolitaTrăm năm cô đơn nằm trong số đó. Nhưng nếu như phải cấm chúng, thì chúng ta cũng phải làm như vậy với các kiệt tác như The Brothers Karamazov (Anh em nhà Karamazov), The Idiot (Gã khờ), War and Peace (Chiến tranh và Hòa bình)… Nabokov và Marquez không cần phải được định giá lại bằng các độc giả mù chữ…”.


Trang bìa Trăm năm cô đơn

Còn nhà viết kịch Leonid Zorin nói: “Nhà thờ không có quyền kiểm duyệt văn học. Việc đó thật là ngu xuẩn”.

Nhà văn Boris Akinin cảnh báo, nhà thờ Thiên chúa Nga có thể lặp lại sai lầm mà các nhà thờ Tin lành từng mắc phải trong thế kỷ 20.

“Đã có rất nhiều phiên tòa về Lolita cũng như các cuốn sách khác và chúng đều kết thúc giống nhau với phần thắng thuộc về văn chương chân chính. Nhà thờ phải hiểu rằng, họ không có thẩm quyền gì mà dính vào các vấn đề văn chương cả”, Akinin nói.
Trước những phản ứng dồn dập này, Chaplin giải thích, ông chỉ muốn báo động về vấn đề đạo đức và lối sống con người trong xã hội hiện đại.
 
Lolita, xuất bản bằng tiếng Anh năm 1955 của Nabokov, là câu chuyện về một người đàn ông trung niên có những ám ảnh tình dục với cô bé 12 tuổi. Còn Trăm năm cô đơn của Marquez kể về một dòng họ trong suốt 100 năm. Một trong những đề tài lớn của tác phẩm là tình yêu - tình dục, trong đó quan hệ loạn luân được đề cập đến như một thông điệp mang tính cảnh báo. Tác phẩm cũng có nhiều trang viết miêu tả cảnh sex khá táo bạo. Cả hai tiểu thuyết này đều là những tác phẩm kinh điển của văn chương thế giới.
Theo Evan – VnExpress

Xuất bản cuốn “tiểu thuyết suýt bị đốt” của Vladimir Nabokov

Trước khi qua đời, nhà văn Nga Vladimir Nabokov (1899-1977) đã để lại di chúc cho người thân đề nghị đốt bản thảo cuốn tiểu thuyết đang viết dở The Original Of Laura (“Laura thực”). Thế nhưng người con trai Dmitry đã làm trái ý cha. Ông vẫn giữ bản thảo cuốn tiểu thuyết trong suốt 32 năm qua và giờ đây tác phẩm sẽ được xuất bản lần đầu tiên vào ngày 17/11 ở New York (Mỹ) và London (Anh).



Nhà văn Vladimir Nabokov

Bà vợ Vera từng cứu được bản thảo cuốn Lolita từ đống lửa mà nhờ đó nhà văn Vladimir Nabokov có cơ hội nổi tiếng toàn thế giới vào năm 1955. Đến lượt người con trai Dmitry, hiện đã 75 tuổi, cũng làm giống như mẹ vì đã gìn giữ bản thảo cuốn The Original Of Laura trong hơn ba thập niên. Thời gian qua gia đình nhà văn đã cân nhắc nhiều trước khi gặp Andrew Wylie. Ông này đã thương thảo hợp đồng với NXB Knopf/Random House ở Mỹ và NXB Penguin ở Anh để xuất bản cuốn tiểu thuyết dở dang của Nabokov.

Bản thảo cuốn The Original Of Laura - không được viết trên các trang giấy bình thường mà trên 138 tấm giấy nhỏ để tra cứu - hiện vẫn đang được giữ trong một nhà băng ở Montreux, Thụy Sĩ. Chính tại Thụy Sĩ nhà văn Nabokov đã qua đời vào năm 1977.

Giống như cuốn Lolita, The Original Of Laura được Nabokov viết bằng tiếng Anh. Nhà văn này sinh ra ở Saint Petersburg, thuộc dòng dõi quý tộc Nga. Năm 1919 ông di cư cùng gia đình sang châu Âu. Thời gian đầu ông sáng tác văn học bằng tiếng mẹ đẻ nhưng chuyển sang viết bằng tiếng Anh từ năm 1941, sau khi cộng đồng người Nga ở châu Âu bị tan tác bởi chiến tranh. Từ khi Nabokov mất đã xảy ra cuộc tranh luận dai dẳng là có nên tôn trọng ý nguyện cuối cùng của người đã khuất hay không - tức đốt hay giữ lại bản thảo cuốn Laura.

Gavriel Shapiro, Giáo sư Văn học Nga thuộc Trường ĐHTH Cornell, đồng thời là tác giả của nhiều cuốn sách về Nabokov, giữ quan điểm: “Dmitry (con trai nhà văn) đã có quyết định đúng đắn. Có lúc Nabokov từng đốt cuốn Lolita nhưng bà Vera đã ngăn kịp”.

Nabokov không phải là nhà văn duy nhất trong giới văn chương muốn đốt tác phẩm của mình. Nhà văn Franz Kafka cũng yêu cầu người bạn là Max Brod thiêu hủy toàn bộ các tác phẩm chưa hoàn tất của mình, trong đó có The Trial. Nhưng cuối cùng thì cuốn sách này vẫn đến được với độc giả sau khi ông qua đời.

Hiện đang nổi lên nhiều suy đoán về nội dung và chất lượng cuốn The Original Of Laura. Shapiro là một trong số ít người đã đọc tác phẩm trước khi in, ông cho biết: “Tôi đã được Dmitry cho phép đọc bản thảo cuốn truyện này cách đây nhiều năm. Tôi không nhớ từng chi tiết, nhưng nếu Nabokov có thời gian hoàn thành cuốn tiểu thuyết này thì nó hiển nhiên là một thành công trọn vẹn”.



Nabokov và phu nhân những năm cuối đời

Dmitry Nabokov cũng đã nói đến tầm quan trọng của cuốn tiểu thuyết suýt bị đốt. Trong một lần trả lời phỏng vấn trên đài BBC năm 2008 ông nói: “Cha tôi nói với tôi về những cuốn sách quan trọng nhất của ông, trong đó có Laura. Cha tôi sẽ phản ứng một cách tỉnh táo và ít bi quan hơn nếu như ông không cảm nhận rằng cái chết đang đến rất gần. Trong trường hợp khác chắc chắn ông không muốn đốt bản thảo mà ông sẽ hoàn tất cuốn tiểu thuyết”.

Có điều chưa rõ ràng là cuốn sách viết dở này sẽ được hoàn tất như thế nào và liệu nó có đáp ứng những chuẩn mực như trong các cuốn tiểu thuyết đã xuất bản của Nabokov hay không. Trong một lần trả lời phỏng vấn trên đài BBC, bản thân nhà văn Vladimir Nabokov đã bàn về phương pháp viết văn khác thường của mình: “Tôi sử dụng các phiếu tra cứu mục lục và không viết một cách liên tục, từ chương đầu đến chương tiếp theo cho đến khi kết thúc. Tôi chỉ lấp đầy những chỗ trống”.

Có những lời đồn đoán rằng cuốn tiểu thuyết này thậm chí còn nặng về sex hơn cả cuốn Lolita - câu chuyện về người đàn ông lớn tuổi tên là Humbert luôn bị ám ảnh về quan hệ tình dục với một cô bé Haze mới mười hai tuổi. Dmitry Nabokov chỉ tiết lộ rằng cuốn Laura kể về một nhà thần kinh học có trí tuệ tuyệt vời nhưng lại không hấp dẫn về thể xác, ông có ý định tự vẫn vì quá thất vọng với tính lăng nhăng của người vợ quá trẻ.

Lương Tuấn Vĩ (TT&VH)

"Lolita" và những con bướm của Vladimir Nabokov

Bằng cách phân tích DNK, các nhà khoa học Anh đã xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết mà đương thời nhà văn Vladimir Nabokov đã nêu lên về sự di cư của loài bướm từ châu Á qua eo biển Bering tới Bắc và Nam Mỹ. Báo cáo của Viện khoa học Hoàng gia Anh nói rằng eo biển Bering chính là một hành lang sinh học để các loài côn trùng từ châu Á bay đến Tân thế giới. Bản báo cáo cũng thừa nhận những đóng góp đáng kể của Nabokov vào hệ thống phân loại các loài bướm.

Ít người biết rằng Nabokov không chỉ là một nhà văn kiệt xuất, mà còn là một nhà côn trùng học tài năng. Truyện ngắn đầu tiên ông viết năm 9 tuổi, và con bướm đầu tiên ông bắt khi lên 6. Kể từ đó, niềm đam mê bướm đã theo ông suốt cả cuộc đời. Bà Tatiana Ponomareva, giám đốc bảo tàng Vladimir Nabokov tại St Petersburg cho biết:

“Hồi đó, việc nghiên cứu loài bướm là niềm say mê thời thượng từ châu Âu lan sang Nga cùng với sự quan tâm lớn trong ngành khoa học tự nhiên. Trong bảo tàng của chúng tôi có cuốn sách "Các loài bướm nước Anh" của Newman, một nhà côn trùng học người Anh. Đây là cuốn sách lớn, một ấn phẩm khoa học mà trong hồi ký của mình, Nabokov tiết lộ rằng ông đã đọc từ năm 8 tuổi. Trong sách có những ghi chú bằng bàn tay trẻ con, và một số loài bướm được chính ông tô màu. Nhiều người coi Nabokov là một nhà côn trùng học chuyên nghiệp. Đừng quên rằng ông từng là người thuyết minh về loài cánh vẩy tại Bảo tàng sinh học ở Mỹ. Công việc này đòi hỏi nhiều kiến thức chuyên môn. Và ông đã phục vụ tốt việc đó trong suốt bảy năm.”

Gia đình Nabokov rời Nga trong những năm rối ren sau cách mạng 1917. Lúc đầu những tưởng chỉ ra đi một thời gian ngắn, nhưng rồi hóa ra phải tha hương mãi mãi. Nhiều lần Nabokov nói rằng ông sẽ không bao giờ có thể tồn tại ở Liên Xô Nga với tư cách là một nhà văn, nhưng có thể sống và làm việc như một nhà côn trùng học. Bướm không chỉ một lần cứu sống ông trong cuộc lưu vong – thoạt tiên ở châu Âu, sau đó tại Mỹ. Bướm đã giúp ông kiếm bánh mì trong những tháng ngày mà Vladimir Nabokov vẫn còn là một nhà văn vô danh. Mà đó là một giai đoạn khá dài: "Lolita" - tiểu thuyết đầu tiên mang lại cho Nabokov niềm vinh quang thế giới và sau đó là thành công thương mại được viết vào mùa hè năm 1954, khi ông đã 55 tuổi. Trong mỗi cuốn tiểu thuyết của ông đều xuất hiện những con bướm mà ông yêu quý. Các nhà nghiên cứu thậm chí còn ước tính rằng bướm được đề cập đến 570 lần. Có hơn hai mươi loài bướm hiện đại đã được các nhà côn trùng học lấy các nhân vật văn học của Nabokov như "Lolita", "Ada", "Masha" để đặt tên. Giám đốc bảo tàng Tatyana Ponomareva nói:

“Tất nhiên, đây là chuyện rất cảm động! Và có lẽ là trường hợp duy nhất khi mà con bướm không mang tên của các nhà khoa học, mà là tên nhân vật văn học của một trong những nhà côn trùng học. Được biết, Nabokov phát hiện ra một loại bướm ở châu Mỹ. Một con bướm rất hiếm mang tên ông. Ngay cả sau này ông đã viết rằng ông tự hào về con bướm đó không kém tự hào vì những thành tựu văn học của ông –con bướm đó, "con đỡ đầu của tôi” như ông thường gọi, sẽ còn bay lượn trong nhiều thế kỉ nữa”.

Văn học và khoa học về loài bướm (lepidopterologiya) luôn luôn song trong hành trong cuộc đời Nabokov. Cuối đời, ông quyết định lập một album gồm những bức tranh vẽ bướm của các nghệ sĩ của thế giới để theo dõi sự tiến hóa của loài côn trung này. Thật không may, Nabokov bị ngã từ sườn núi dốc đứng trong những cuộc thám hiểm ở ngoại ô Montreux. Theo người thân của Nabokov, tai nạn đó là nguyên nhân gây ra cái chết của ông vào tháng Bảy năm 1977.

Bộ sưu tập được Vladimir Nabokov thu thập ở Mỹ và Thụy Sĩ, nơi ông đã sống trong những năm cuối đời vẫn còn được lưu giữ. Bà Tatyana Ponomareva nói:

Chúng tôi có một phần nhỏ của bộ sưu tập giai đoạn Nabokov sống ở Mỹ, do Bảo tàng Harvard tặng. Bộ sưu tập Thụy Sĩ rất rộng lớn và phong phú. Chúng tôi đã đạt được thỏa thuận với bảo tàng Lausanne rằng họ sẽ đưa bộ sưu tập này hoặc một phần của nó đến chỗ chúng tôi triển lãm. Cho nên khách thăm bảo tàng chúng tôi có thể chiêm ngưỡng bộ sưu tập Thụy Sĩ của Nabokov”.
Chiếc vợt bắt bướm của Vladimir Nabokov, mà ông gọi là “rampetka” được bảo quản cẩn thận trong bảo tàng St Petersburg. "Bạn không thể giải thích niềm đam mê này cho một người chưa bao giờ trải qua điều đó, - ông viết. - Công việc của tôi đẹp mê hồn ... Chìm đắm trong thế giới tuyệt vời của kính hiển vi, nơi sự yên tĩnh ngự trị... Niềm vui cao cả của tôi tồn tại ở bất cứ mảnh đất nào, nơi tôi có thể được ở trong xã hội của loài bướm và những cây cỏ nuôi dưỡng chúng. Đó chính là hạnh phúc."

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

LOLITA - TỪ PARIS...

Bản in đầu tiên

Click for large version
1955 FR Olympia Press, Paris

ĐẾN...

Click for large version
1957 DK Hans Reitzel, Copenhagen

Click for large version
1957 SV Wahlström & Widstrand, Stockholm

Click for large version

1958 NL Oisterwijk, The Hague

Click for large version
1958 US Putnam, New York

Click for large version
1959 BRD Rowohlt, Hamburg


Click for large version
1959 FIN Gummerus, Jyväskylä


Click for large version
1959 FR Gallimard (nrf Du Monde Entier), Paris


Click for large version
1959 GB Weidenfeld & Nicolson, London


Click for large version
1959 IL Ma'ariv, Tel Aviv

Click for large version
1959 IT Mondadori, Milano


Click for large version
1959 TUR Aydin Yayinevi, Istanbul

Click for large version
1959a ARG Sur, Buenos Aires

Click for large version
1959b ARG Sur, Buenos Aires


Click for large version
1961 FR Olympia Press, Paris

Click for large version
1961 GB Transworld Corgi Books, London

Click for large version
1961 GR Gerolymbos, Athens

Click for large version
1962 BRA Boa Leitura, Sao Paulo

Click for large version
1962 JAP Kawade Shobo Shinsha, Tokyo

Click for large version
1962 US Fawcett (Crest Books), Greenwich CT

Click for large version
1963 DK Gyldendals Tranebøger, Copenhagen

Click for large version
1963 FIN Gummerus (Kompassi-kirja), Jyväskylä

Click for large version
1963 FR Gallimard (Livre de Poche), Paris

Click for large version
1964 BRD Rowohlt TB (rororo), Reinbek

Click for large version
1964 IT Mondadori, Milano

Click for large version
1964 TUR Altin Kitaplar Yayinevi, Istanbul

Click for large version
1964 US 'Lolita and Poems' LP Spoken Arts, New York

Click for large version
1965 SV Aldus-Bonnier (Delfinbok), Stockholm

Click for large version
1966 CH Guilde du Livre, Lausanne

Click for large version
1966 IT Mondadori (Gli Oscar), Milano

Click for large version
1966 US Berkley Medallion Books, New York

Click for large version
1967 DK Gyldendals Bogklub, Copenhagen

Click for large version
1967 US Phaedra, New York

Click for large version
1968 US Proffer 'Keys to Lolita' UP Indiana, Bloomington IN

Click for large version
1969 DK Gyldendal (Gyldendals Traneboger), Copenhagen

Click for large version
1969 GB Transworld (Corgi), London

Click for large version
1969 IT Mondadori, Rome (Poster)

Click for large version
1970 IT Mondadori (Gli Oscar), Milano

Click for large version
1970 US Appel 'The Annotated Lolita' McGraw-Hill, New York

Click for large version
1970s NL Omega, Amsterdam

Click for large version
1971 US Barry-Lerner 'Lolita My Love' (Recording)

Click for large version
1972 NOR DnB, Oslo

Click for large version
1973 GB Transworld (Corgi Books), London

Click for large version
1974 BRD Büchergilde Gutenberg, Frankfurt

Click for large version
1974 POR Europa-América (lb97), Lisbon

Click for large version
1974 TUR Altin Kitaplar, Istanbu

Click for large version
1975 SP Grijalbo, Barcelona

Click for large version
1976 BRD Rowohlt (Sonderausgabe), Reinbek

Click for large version
1977 DE Europäische Bildungsgemeinschaft, Stuttgart

Click for large version
1978 NL Omega Boek, Amsterdam & Bruna, Antwerp

Click for large version
1979 US Albee 'Lolita' Dramatists Play Service, New York

Click for large version
1979 US Franklin Library, Franklin Center PA

Click for large version
1980 GB Penguin, London

Click for large version
1980 IT Mondadori (Gli Oscar), Milano

Click for large version
1980 US Putnam (Perigee Books), New York

Click for large version
1981 FR Gallimard (folio), Paris

Click for large version
1981 US Franklin Library, Franklin Center PA

Click for large version
1982 BRD Bertelsmann Club, Gütersloh

Click for large version
1982 US Greenwich House, New York

Click for large version
1983 IT CDE spa, Milano

Click for large version
1983 SP Seix Barral, Barcelona

Click for large version
1983 US 'Lolita A Screenplay' McGraw-Hill, New York

Click for large version
1986 FR Rivages, Paris

Click for large version
1986 US 'The Enchanter' Putnam, New York

Click for large version
1987 BRD 'Der Zauberer' Rowohlt, Reinbek

Click for large version
1987 BRD Rowohlt TB (rororo), Reinbek

Click for large version
1987 POR Teorema, Lisbon

Click for large version
1988 BRD 'Der Zauberer' Bertelsmann Club, Gütersloh

Click for large version
1988 LEB Dar Al-Adab, Beirut

Click for large version
1989 BRD Rowohlt, Reinbek

Click for large version
1989 DDR Volk und Welt (ex libris), Berlin

Click for large version
1989 RU Izvestiya, Moscow

Click for large version
1989 US Vintage International, New York

Click for large version
1990 BRD Büchergilde Gutenberg, Frankfurt

Click for large version
1990 BRD Rowohlt (rororo), Reinbek

Click for large version
1990 DDR 'Der Zauberer' Volk und Welt (Spektrum), Berlin

Click for large version
1990 EST Eesti Raamat, Tallinn

Click for large version
1991 BEL MOKA, Minsk

Click for large version
1991 CZ Odeon, Praha

Click for large version
1991 FR 'Le don - Lolita - Pnine' Gallimard (Biblos), Paris

Click for large version
1991 JAP 'The Enchanter' Shinchosha, Tokyo

Click for large version
1991 POL Panstwowy Instytut Wydawniczy, Warsaw

Click for large version
1991 SP Anagrama (Compactos), Barcelona

Click for large version
1991 US 'The Enchanter' Random House (Vintage International), New York

Click for large version
1991 US Appel 'The Annotated Lolita' Random House (Vintage), New York

Click for large version
1992 US Knopf (Everyman's Library), New York

Click for large version
1993 DE Rowohlt Taschenbuch (rororo), Reinbek

Click for large version
1993 GB Weidenfeld & Nicolson, London

Click for large version
1993 IT Adelphi, Milano

Click for large version
1994 BRA Companhia das Letras, São Paulo

Click for large version
1994 NL De Bezige Bij, Amsterdam

Click for large version
1995 DE Winkler, München

Click for large version
1995 FR Gallimard (folio), Paris

Click for large version
1995 GB Penguin, London

Click for large version
1997 IT 'Lolita (sceneggiatura)' Bompiani, Milano

Click for large version
1997 POL Da Capo, Warsaw

Click for large version
1997 US VHS Random House Audio, New York

Click for large version
1997a US Random House (Vintage), New York

Click for large version
1997b US 'Lolita A Screenplay' Random House (Vintage), New York

Click for large version
1998 CRO SysPrint, Zagreb

Click for large version
1998 DE Hörverlag, Köln

Click for large version
1998 DE Lyne 'Lolita' BMG Video, Munich

Click for large version
1998 DE Rowohlt (rororo), Reinbek

Click for large version
1998 FIN Gummerus (BB), Jyväskylä

Click for large version
B
1998 FR 'Lolita (scénario)' Gallimard, Paris

Click for large version
1998 SV Replik, Viken (Sweden)

Click for large version
1998 US Schiff 'Lolita The Book of the Film' Applause Books, New York
Click for large version
1998 US Schiff 'Lolita The Book of the Film' Applause Books, New York

Click for large version
1999 COR Minumsa, Seoul

Click for large version
1999 DE 'Lolita Ein Drehbuch' Rowohlt, Reinbek

Click for large version
1999 DE Hörverlag, München

Click for large version
1999 DE Rowohlt (rororo), Reinbek

Click for large version
1999 IL HaKibbutz HaMeuchad, Tel Aviv

Click for large version
1999 RU EKSMO-Press, Moscow

Click for large version
1999 SP Anagrama (Compactos), Barcelona

Click for large version
1999 SP El Mundo (Millenium), Madrid

Click for large version
1999 US Lyne 'Lolita' VHS Trimark Home Video, Santa Monica CA

Click for large version
2000 GB 'The Annotated Lolita' Penguin, London

Click for large version
2000 GB Clegg 'A Reader's Guide' Icon Books, Duxford, Cambridge

Click for large version
2000 GB Penguin (Modern Classics), London

Click for large version
2000 POR Biblioteca Visao, Linda-da-Velha

Click for large version
2000 RU 'Sobranie sochinnenii amerikanskogo perioda' Simpozium, St.Petersburg

Click for large version
2000 TAI Xian Jue, Taipei

Click for large version
2001 DE Kubrick 'Lolita' DVD Warner Home Video, Hamburg

Click for large version
2001 FR Gallimard (Du monde entier), Paris

Click for large version
2002 DE Suhrkamp (stb), Frankfurt

Click for large version
2002 GR Patakis, Athens

Click for large version
2002 IT Biblioteca di Repubblica, Rome

Click for large version
2002 RU AST, Moscow

Click for large version
2002 TUR Iletisim, Istanbul

Click for large version
2003 CZ Paseka, Prague

Click for large version
2003 POL Muza (BB), Warsaw

Click for large version
2003 POL Muza, Warsaw

Click for large version
2003 RU AST, Moscow

Click for large version
2003 US Pifer 'Lolita A Casebook' Oxford UP, New York

Click for large version
2004 DE Rowohlt (rororo Sonderausgabe), Reinbek

Click for large version
2004 RU AST, Moscow

Click for large version
2004 RU EKSMO-Press (Krasnaya kniga russkoi prosy), Moscow

Click for large version
2004 RU Vita Nova, St. Petersburg

Click for large version
2005 CHI Yiwen Press, Shanghai

Click for large version
2005 DE Maar 'Lolita und der deutsche Leutnant' Suhrkamp, Frankfurt

Click for large version
2005 DE Rowohlt (rororo Jubiläumsausgabe), Reinbek

Click for large version
2005 FR Gallimard (folio), Paris

Click for large version
2005 GB Maar 'The Two Lolitas' Verso, London

Click for large version
2005 JAP Shinchosha (PB), Tokyo

Click for large version
2005 JAP Shinchosha, Tokyo

Click for large version
2005 LIT Presvika, Vilnius

Click for large version
2005 RU EKSMO-Press (Biblioteka Vsemirnoi Literatury), Moscow

Click for large version
2005 SLO Beletria Edicia, Bratislava

Click for large version
2005 US Random House (Vintage), New York

Click for large version
2005 US Random House Audio, New York

Click for large version
2006 DE Shchedrin 'Lolita' (Piano Reduction) Schott Music, Mainz

Click for large version
2006 GB Penguin (Red Classics), London

Click for large version
2006 HUN Európa, Budapest

Click for large version
2006 NL De Bezige Bij, Amsterdam (unpublished)

Click for large version
2006a RU Azbuka-Klassika, St.Petersburg

Click for large version
2006b RU Azbuka-Klassika, St.Petersburg

Click for large version